KINH MÂN CÔI: NHỮNG SUY NIỆM THÁNH THỂ VỚI CHA THÁNH EYMARD (tiếp theo)

KINH MÂN CÔI: NHỮNG SUY NIỆM THÁNH THỂ VỚI CHA THÁNH EYMARD (tiếp theo)

MỤC LỤC

Lời Tựa.

Phi Lộ.

Dẫn Nhập.

Đọc Kinh Mân Côi

Xin Dạy Chúng Con Cách Cầu Nguyện.

Lời Cầu Nguyện Khởi Đầu.

Chính Nhờ Người, Với Người, và Trong Người

Các Mầu Nhiệm Sự Thương.

1. Sự Buồn Rầu Đau Đớn Trong Vườn Ô-liu.

Hãy Đến Đây.

2. Chúa Bị Trói Vào Cột Đá Để Chịu Đánh Đòn.

Hãy Cầm Lấy Mà Uống.

3. Chúa Giê-su chịu Đội Mão Gai

Con có Yêu Ta không?.

4. Chúa Giê-su Vác Thập Giá.

Hãy Theo Thầy.

5. Chúa Chịu Đóng Đinh.

Hãy Cho Con Thấy Các Thương Tích của Ngài

Các Mầu Nhiệm Sự Mừng.

1. Chúa Giê-su Sống Lại

Hãy Tin Vào Thầy.

2. Chúa Lên Trời

Nâng Tâm Hồn Lên.

3. Chúa Thánh Thần Ngự Xuống.

Hãy Mở Lòng Ra Với Ta.

4. Đức Ma-ri-a Được Đưa Lên Trời

Hãy Vững Tin Ở Ta.

5. Đức Ma-ri-a Được Đội Mũ Triều Thiên.

Hãy Ra Đi

Lời Tựa

     Bạn đang cầm trên tay món quà quý giá từ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và những suy tư của Ivonne Hernandez. Cô chia sẻ với bạn câu chuyện đời cô về tình yêu của cô đối với Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta trong Bí Tích Cực Thánh và về lòng sùng kính đối với Đức Mẹ Thánh Thể được thể hiện qua việc đọc Kinh Mân Côi. Có một yếu tố thứ ba sẽ được khám phá ra từ những lời trong tập sách này và những lời đó phát xuất từ một vị linh mục khiêm nhường ra đời ở La Mure nước Pháp, vào ngày 4 tháng 2 năm 1811. Vị linh mục này rất sùng kính Đức Mẹ và thường đi bộ hành hương với tràng chuỗi Mân Côi trong tay đến thờ kính Đức Mẹ trong dãy núi Alps ở nước Pháp.

     Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma xác nhận rằng người đã được chính Đức Maria dẫn dắt đến thiên chức linh mục, và người đã được thụ phong vào ngày 20 tháng 7 năm 1834 tại giáo phận Grenoble. Năm 1839, sau một vài năm nhiệt thành mục vụ, người đã cảm nhận một sự thúc bách khác nữa trong tâm hồn và đã xin đức giám mục giáo phận cho phép người được gia nhập vào Dòng Đức Maria mới được thành lập. Khi bạn đọc Kinh Mân Côi với tâm hồn lắng nghe, bạn sẽ nhận thấy Đức Ma-ri-a luôn dẫn dắt bạn đến với Con của Mẹ. Chính tại đền thờ kính Đức Maria ở Fourviere, Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô một lần nữa được mời gọi giũ bỏ mọi thứ và thành lập một hội dòng hoàn toàn tận hiến cho tình yêu Thiên Chúa trong Thánh Thể và cho công cuộc tông đồ loan truyền tình yêu Thiên Chúa trong Thánh Thể cho mọi người được biết. Lúc bấy giờ là 13 tháng 5 năm 1856, ngày lễ Đức Mẹ Thánh Thể.

     Năm nay (tức năm 2018) đánh dấu 150 năm ngày qua đời của thánh Ê-ma, 1 tháng 8 năm 1868. Đây là lúc để đón nhận sự gợi hứng từ Vị Thánh đã được tuyên phong hiển thánh tại Công đồng Vatican II ngày 9 tháng 12 năm 1962 và đã được Thánh Giáo hoàng Gio-an XXIII tặng ban tước hiệu trổi vượt là Tông Đồ Thánh Thể. Trong bản Hiến pháp của Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô, có đoạn viết, “Đối với Thánh Mẫu của Chúa Giê-su, họ sẽ tôn kính Mẹ cách đặc biệt trong lời ngợi khen và trong tâm hồn của họ, họ sẽ không bao giờ tách biệt Chúa Con với Đức Mẹ, vì huyết nhục của Mẹ là của Chúa Con.” (Hiến pháp # 78).

     Luật Sống dành cho các thành viên của gia đình Ê-ma viết rằng: “Đức Ma-ri-a, Mẹ Chúa Giê-su, tiếng nói của người nghèo và người thấp hèn, đã đón nhận Lời của Thiên Chúa vào tâm hồn và đem ra thực hành. Mẹ đã chia sẻ cuộc sống và lời cầu nguyện của Mẹ với các môn đệ, đồng thời tích cực hoạt động với các môn đệ cho Nước Chúa trị đến. Chúng ta sẽ tôn kính Đức Ma-ri-a như người nghèo của Thiên Chúa và người tôi tớ của Đức Chúa, với một tình yêu giống như Đấng Sáng Lập của chúng ta, người cũng đã cầu khẩn Mẹ dưới danh hiệu Đức Mẹ Thánh Thể. Chúng ta sẽ yêu mến mà suy gẫm các mầu nhiệm Kinh Mân Côi.” (LS, # 14).

     Bạn đang cầm một tặng phẩm có khả năng biến đổi việc đọc Kinh Mân Côi của bạn trong khi bạn suy gẫm 20 mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể. Lời Kinh sẽ đưa chúng ta đến việc đặt Thánh Thể ở vị trí trung tâm cuộc đời mình và sống các mầu nhiệm Mân Côi hầu cho tình yêu Thiên Chúa được mọi người biết đến ngang qua cuộc đời chúng ta. Cảm ơn Ivonne về tặng phẩm này!

Cha William Fickel, S.S.S.

Quản xứ Giáo xứ Thánh Vinh-sơn Phao-lô

Thành Phố Holiday, Florida, 25/3/2018

Phi Lộ

     “Ta muốn con đến đây vào ngày 13 tháng sau.” Tim tôi đập thình thịch khi nghe những lời này. Tôi nhìn lên bạn của tôi –  Laura –  đang đọc to thông điệp của Đức Mẹ Fatima đã nhắn gửi Lucia trong lần Mẹ hiện ra ngày 13 tháng 6 năm 1917 trong suốt buổi cầu nguyện hàng tháng của nhóm chúng tôi, và tôi đã nghĩ thầm: “Cái gì đây?” Và ngay lúc đó, Laura tiếp tục lặp lại những lời này: “Ta muốn con đến đây vào ngày 13 tháng sau. Ta muốn con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày … Ta muốn con học cách đọc và viết, và sau này ta sẽ cho con biết những gì khác ta muốn ở con.” Dù là Laura đang đọc, nhưng tôi cảm nhận được đó là lúc Đức Mẹ đang trực tiếp nói trong tâm hồn tôi.  Bạn thấy đấy, tôi vừa hỏi Đức Mẹ rằng Mẹ muốn gì ở tôi.

     Tôi đã phân định trong nhiều tháng trời rằng liệu tôi có nên cùng với chồng mình ghi danh gia nhập Huynh Đoàn Thánh Thể hay không. Tôi đã lên kế hoạch cho việc ghi danh vào Huynh Đoàn Thánh Thể này vào ngày 13 của tháng sau, tức ngày 13 tháng 5 năm 2016.

     Tôi biết rằng tôi đã có câu trả lời trực tiếp từ Đức Mẹ.

     Ngay cả khi tôi viết sự kiện này, vốn đã xảy ra cách đây một năm rưỡi, tim tôi vẫn còn bồi hồi rung động trong lồng ngực. Ký ức về lời mời gọi này vẫn sống động như chính ngày đó. Từng thớ thịt của con người tôi đều hòa nhịp rung động với từng lời của Đức Mẹ. Tôi hình dung đây là cách những đầy tớ ở tiệc cưới Ca-na đã cảm nhận khi Mẹ nói với họ: “Người bảo sao thì cứ làm theo như vậy.” Giọng nói nhẹ nhàng nhưng đầy sức thuyết phục của Mẹ đã loại bỏ mọi sợ hãi và nghi ngờ trong lòng tôi và đã thúc bách tôi hành động. Mẹ đã bảo tôi đến trường học Thánh Thể và đăng ký vào lớp học của Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma. Mẹ đã bảo tôi hãy trở thành một cộng tác viên giáo dân của Dòng Thánh Thể.

     Đức Mẹ đã chuẩn bị cho tôi ở vai trò này trong một khoảng thời gian. Tôi đã hứa với Mẹ từ năm năm trước khi tôi tận hiến chính mình cho Chúa Giê-su qua Mẹ Ma-ri-a vào ngày 25 tháng 3 năm 2011, theo phương pháp thánh hiến hoàn toàn của thánh Louis de Montfort. Tôi đã hứa sẽ dành cho Mẹ Ma-ri-a cả cuộc đời để có thể hun đúc nên giống Con Chí Thánh của Mẹ ngang qua việc họa lại theo khuôn mẫu hoàn hảo mà Thiên Chúa đã chọn đầu tiên là Đức Mẹ diễm phúc của chúng ta. Bạn tôi, Laura, người mà tôi đã đề cập trước đó, đã đưa hoạt động đạo đức này vào nhóm giáo dục Công giáo tại gia và chúng tôi đã chuẩn bị và hiến thánh thành một nhóm tận hiến. Việc canh tân lời hứa tận hiến hàng năm đã giúp tôi có một sự hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm của sự dâng hiến cuộc đời tôi cho Mẹ Ma-ri-a. Tôi đã học được cách nhận ra tiếng của Mẹ và nhìn thấy bàn tay chỉ dẫn của Mẹ trong đời tôi.

     Đức Maria ở đâu thì Chúa Thánh Thần ở đó với Mẹ. Và khi Mẹ nói, Chúa Thánh Thần cũng hiện diện trong hơi thở của Mẹ và mang lại sự sống mới. Những lời Mẹ nói với tôi vào ngày đó giống như lời Mẹ chào người chị họ Elizabeth, vì thế khiến tâm hồn tôi nhảy mừng vui sướng.

Vợ chồng tôi đã ghi danh gia nhập vào Huynh Đoàn Thánh Thể ngày 13 tháng 5 năm 2016. Đó là năm kỷ niệm 160 năm Hội Thánh kêu cầu Mẹ dưới tước hiệu Đức Mẹ Thánh Thể, và kỷ niệm 99 năm biến cố Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Cũng như bao người mẹ nhân từ khác, Mẹ Ma-ri-a biết rất rõ các con của Mẹ. Mẹ biết rằng tôi luôn nhận thấy sự trùng hợp trong những ngày gặp gỡ, và Mẹ đã dùng nó để nói với tôi. Đó phải chăng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên khi chúng tôi bắt đầu chương trình đào tạo dành cho các hội viên Huynh Đoàn Thánh Thể vào ngày 13 tháng 10, ngày kỷ niệm phép lạ nổi tiếng ở Fatima, phép lạ mặt trời, và trong khi học hỏi các thông điệp của Đức Mẹ Fatima, tôi cảm thấy Mẹ đang gọi tôi tới việc ghi danh gia nhập Huynh Đoàn Thánh Thể đúng vào ngày kỷ niệm Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima, và cũng là ngày lễ kỷ niệm 160 năm Đức Mẹ Thánh Thể? Có thể nó đúng đối với người khác, nhưng với tôi thì không phải ngẫu nhiên. Những ngày tháng này có ý nghĩa lớn hơn đối với tôi về sau này, khi những lời của Mẹ rằng “… sau này Mẹ sẽ nói cho con biết Mẹ muốn gì khác ở con” cứ vang vọng trong tâm hồn tôi. 

     Vào tháng Giêng năm sau, bạn tôi, Laura, cũng là hội viên của Huynh Đoàn, đang chuẩn bị một thể thức thánh hiến mới cho nhóm cầu nguyện trực tuyến, nhóm Các Bà Mẹ (Hiền Mẫu) Thánh Thể. Năm nay, chúng tôi sẽ tận hiến cho Đức Mẹ Thánh Thể qua linh đạo của cha thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma, và Laura đang lên kế hoạch hướng dẫn chúng tôi chương trình học trực tuyến bằng cách đăng những suy tư của cô ấy về các bài đọc hằng ngày, cùng với các chủ đề và lời nguyện đặc biệt cho mỗi tuần. Kế hoạch chuẩn bị này bắt đầu vào ngày 13 tháng 2, và kết thúc với lời tuyên hứa thánh hiến vào ngày 25 tháng 3, ngày Lễ Truyền Tin. Một tuần trước khi kế hoạch của chúng tôi bắt đầu, tôi nhận thấy cần có một cách thức để chia sẻ những suy từ này với một lượng thính giả lớn hơn. Tôi có một vài người bạn vẫn quan tâm theo dõi cùng với chúng tôi dù họ không thuộc nhóm nhà tiệc ly cầu nguyện trực tuyến này. Laura thích ý tưởng này, vì vậy, vào ngày 13 tháng 2 năm 2017, đúng chín tháng sau khi tôi ghi danh gia nhập vào Huynh Đoàn, trang điện tử có tên gọi Blog Elisheba đã ra đời.

     Mọi người thường hỏi tôi về tên của trang điện tử Elisheba. Đó là hình thức tiếng Híp-ri của tên gọi Elizabeth, nghĩa là Lời hứa của Thiên Chúa. “Tất cả những lời hứa tình yêu thương của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo đã được ứng nghiệm trong giao ước mới và vĩnh cửu trong Đức Ki-tô” (SGLCG, 2787), nơi Thánh Thể. Trang điện tử Elisheba cùng với cuốn sách này là những phương cách để thực hiện lời cam kết của tôi trong vai trò một hội viên Huynh Đoàn Thánh Thể là “làm cho mọi người nhận biết tình yêu của Thiên Chúa hiện diện trong Thánh Thể.”

     Khi hoàn thành các bài đăng về việc tận hiến cho Đức Mẹ Thánh Thể, tôi nhận thấy một nguồn cảm hứng mạnh mẽ thôi thúc tôi suy ngẫm về các mầu nhiệm Mân Côi dưới lăng kính Thánh Thể, ngang qua những lời giảng dạy của Cha Ê-ma, và chia sẻ những suy ngẫm này trên trang điện tử của nhóm. Với công việc này, có ít nhất hai vấn đề nan giải. Đầu tiên, tôi cảm thấy ngượng ngùng với những ý tưởng viết bài chia sẻ trên trang điện tử của nhóm. Vì suy cho cùng, thực sự tôi không phải là nhà văn. Thứ hai, đang khi tôi ước muốn đọc Kinh Mân Côi cách thường xuyên trong một thời gian dài, thì tôi lại vướng víu vào các công việc không phải là thế mạnh của tôi. Làm sao tôi có thể viết về điều mà tôi thực sự không có kinh nghiệm nhiều về nó? Tôi tự hỏi, “Điều này làm sao có thể xảy ra được?”

     Và rồi tôi nhớ lại câu nói của Mẹ: “… sau này Mẹ sẽ nói cho con biết Mẹ muốn gì khác ở con… Người bảo sao thì cứ làm theo như vậy.” Giọng nói nhẹ nhàng đó lại thắp lên ngọn lửa trong tâm hồn tôi. Từ ngọn lửa này, tôi nghe một giọng nói: “Ơn Ta đủ cho con, quyền năng của Ta hoàn trọn trong sự yếu đuối của con.” Và tự đáy lòng tôi đã thưa: “Xin hãy thực hiện điều Ngài muốn nơi con.”

     Những suy niệm được tổng hợp trong cuốn sách này đã được xuất bản lần đầu tiên trên trang điện tử Elisheba và giờ đây tôi muốn chia sẻ với anh chị em hồng ân này mà tôi đã được nhận lãnh. Tôi ước mong rằng cuốn sách này giúp anh chị em tiến gần hơn đến thánh tâm của Chúa Giê-su trong Bí Tích Cực Thánh, cùng với Thánh Mẫu của chúng ta, và ước mong rằng tất cả là vì vinh danh Thiên Chúa hơn nữa.

Ivonne J. Hernandez, Trinity, FL 25/01/18

Lễ Thánh Phao-lô Tông Đồ Trở Lại

 

Dẫn Nhập

     Toàn bộ nguyện ước của tôi dành cho anh (chị) em là ước mong Chúa Giê-su luôn là trung tâm thánh thiện của anh (chị) em; một trung tâm bao gồm cá nhân và tất cả – đó là nguồn mạch mọi suy nghĩ và ước muốn của anh (chị) em, là sự thôi thúc cho mọi hành vi của anh (chị) em, là nền tảng tình yêu và là thước đo cho mọi hy sinh dấn thân của anh (chị) em.

– Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma –

     Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma thật sự là một vị thánh cho thời đại chúng ta. Người được tuyên phong hiển thánh vào dịp kết thúc phiên họp khoáng đại của Công Đồng Vatican II, tình yêu của thánh Ê-ma đối với Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể là động lực chỉ đạo trong cuộc đời của người. Dưới đây là lời nguyện trong ngày lễ kính thánh Ê-ma, 2 tháng 8:

     Lạy Chúa, Chúa đã làm cho lòng thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma bừng cháy lên lửa yêu mến lạ lùng đối với mầu nhiệm Mình và Máu Đức Ki-tô, Con Chúa. Xin cho chúng con lãnh nhận được ơn phúc dồi dào của bàn tiệc thánh Chúa ban như xưa chính thánh nhân đã lãnh nhận. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con.

     Sinh ra ở (…) La Mure, nước Pháp vào năm 1811, trong bối cảnh những sai lạc của phong trào Jansenist đang lan rộng, thánh Ê-ma “đã một đời cố gắng tìm kiếm sự hoàn thiện nội tâm khiến người đã có thể dâng quà tặng tận hiến chính mình.” Cha thánh Ê-ma cuối cùng đã chuyển đổi từ một linh đạo tập trung vào sự đền tội sang một linh đạo tập trung vào tình yêu của Chúa Ki-tô. Thánh Ê-ma đã nhận biết “quà tặng tình yêu tự hiến chính mình của Chúa Ki-tô dành cho chúng ta” trong Thánh Thể, “và Chúa đang chờ tình yêu đáp đền của chúng ta dành cho Chúa và cho người đồng loại.”

     Cha thánh Ê-ma đã hình dung ra một đại gia đình Thánh Thể hoàn vũ với sứ mạng làm vinh danh Chúa Giê-su trong Bí tích Cực Trọng; một gia đình gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Người đã sáng lập Dòng Thánh Thể (các giáo sĩ và sư huynh) và Dòng Nữ Tỳ Thánh Thể (các nữ tu). Người xác tín rằng một đời sống Thánh Thể sung mãn bao gồm cả hai chiều kích chiêm niệm và hoạt động tông đồ. Các thành viên của Huynh Đoàn Thánh Thể (các hội viên) cũng chia sẻ đặc sủng của cha thánh Ê-ma, họ tự nguyện dấn thân để trở thành những môn đệ và tông đồ Thánh Thể.

     Không phải mãi đến khi được giới thiệu vào gia đình Ê-ma, nhưng một vài năm trước đó, tôi đã đọc một số tác phẩm của Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma, nhờ đó tôi đã phát hiện ra gia sản quý báu ở Vị Thánh này, người đã được Thánh Gioan Phaolô II gọi là Tông Đồ xuất sắc của Thánh Thể, đã để lại cho Giáo Hội Công Giáo. Mặc dù hầu hết các tác phẩm của cha thánh Eymard đều bằng tiếng Pháp, trong đó một số đã được dịch sang tiếng Anh và có sẵn để tham khảo (-). Toàn bộ các tác phẩm hoàn chỉnh của thánh Ê-ma có thể được truy cập tại trang web của Dòng Thánh Thể.

     Hầu hết các trích dẫn trong cuốn sách này được tôi lấy từ cuốn Sự Hiện Diện Thật – tập thứ nhất của bộ sách 9 tập trong Thư Viện Ê-ma, đây là bộ sách tổng hợp các bài giảng của Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma được sắp xếp theo chủ đề. Cuốn sách này là lời giới thiệu đầu tiên của tôi về các bài giáo huấn của Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô  Ê-ma, và nó sẽ luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong trái tim tôi. Nó đã giúp tôi có một cái nhìn hoàn toàn mới về Thánh Thể, và đã thắp lên trong tâm hồn tôi ngọn lửa mến yêu Chúa Giê-su Thánh Thể.

     Tất cả mầu nhiệm đều liên quan một cách nào đó đến Thánh Thể, bởi vì Thánh Thể hoàn thiện các mầu nhiệm. Tất cả các mầu nhiệm quy hướng về Thánh Thể; với sự trợ giúp của ân sủng, chúng ta cần khám phá ra điều gì mang tính chất Thánh Thể trong các mầu nhiệm hầu nuôi dưỡng lòng tôn kính của chúng ta đối với Bí Tích Cực Thánh.[1]

     Bằng sự nhận biết điều gì thuộc về Thánh Thể trong mỗi mầu nhiệm Mân Côi, tôi đã tìm ra các trích dẫn, hầu hết từ tác phẩm Sự Hiện Diện Thật, những trích dẫn này đã thôi thúc tâm hồn tôi, và tôi đã suy gẫm về các trích dẫn này. Những suy tư mà tôi đã chia sẻ chính là kết quả những lần suy gẫm như vậy, và tôi hy vọng mời gọi mỗi bạn đọc cũng làm như vậy.

     Hãy nhìn ngắm mỗi mầu nhiệm Mân Côi dưới lăng kính Thánh Thể và hãy xem mầu nhiệm đó đưa bạn đi đâu. Hãy tìm ra câu trích dẫn của riêng bạn để ngụp lặn sâu trong mầu nhiệm Mân Côi và hãy để cho Thần Khí Chúa thở hơi sự sống mới vào trong lòng sùng kính của bạn đối với Kinh Mân Côi, như Đức Mẹ đưa bạn đến gần hơn với Con Chí Thánh của Mẹ.

Đọc Kinh Mân Côi

     Chúng ta phải nhớ rằng Thánh Thể là Đức Giê-su Ki-tô quá khứ, hiện tại, và tương lai; rằng Thánh Thể là sự kiện cuối cùng của mầu nhiệm Nhập Thể và cuộc sống trần gian của Đấng Cứu Độ chúng ta; trong Thánh Thể, Chúa Giê-su Ki-tô trao ban cho chúng ta mọi ân sủng; tất cả mọi chân lý đều quy chiếu về và hoàn trọn trong Thánh Thể; và chúng ta không cần thêm bất cứ đều gì nữa khi nói: “Thánh Thể,” vì đó là chính Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế chúng ta hãy đặt Bí tích Cực Thánh này làm khởi điểm cho những suy niệm của chúng ta về các mầu nhiệm, các nhân đức, và các chân lý của đạo chúng ta. Thánh Thể là quy tâm điểm; các chân lý của đạo là những tia sáng. Chúng ta hãy bắt đầu xuất phát từ quy tâm điểm để đi đến các tia sáng ấy.[2]

Xin Dạy Chúng Con Cách Cầu Nguyện

     Khi đọc Kinh Mân Côi, chúng ta để Mẹ Ma-ri-a nắm lấy tay mình và dạy cho biết các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giê-su. Khi chúng ta dừng lại ở mỗi mầu nhiệm và suy gẫm cùng Mẹ là lúc Mẹ đổ đầy các ơn cần thiết cho chúng ta. Mẹ kêu cầu Chúa Thánh Thần mưa xuống trên chúng ta các hồng ân của Người và mọi phúc lộc bởi Trời, và Mẹ vui sướng với Ba Ngôi Cực Thánh khi thấy chúng ta ngày một tiến lại gần Thiên Chúa hơn.

     Việc đọc mỗi mầu nhiệm Mân Côi giúp chúng ta nhớ lại và suy gẫm những biến cố trong Tin Mừng. Có điều nào tốt hơn cách này không? Còn gì bằng nếu chúng ta đã có thể đến với Chúa Giê-su cùng Đức Mẹ và xin Chúa dạy chúng ta hoc biết về chính Chúa? Thật tuyệt vời biết bao nếu chúng ta đã có thể ngồi cạnh Chúa Giêsu và được Người kể cho nghe không chỉ những điều được ghi lại trong Tin Mừng, nhưng còn cả suy nghĩ của Người về các biến cố đó nữa. Cũng giống như khi muốn biết về Thế Chiến Thứ Hai, chúng ta có thể đọc một cuốn sách lịch sử về chiến tranh và xem các hình ảnh của những sự kiện đã xảy ra, nhưng vẫn không thể tốt bằng khi chúng ta được ngồi cạnh một cựu chiến binh và nghe ông kể lại câu chuyện về cuộc chiến tranh thế giới. Khi đó chúng ta có thể hỏi ông không chỉ những sự kiện được lịch sử ghi lại, nhưng cả những suy nghĩ mà ông đã cảm nghiệm từ các biến cố lịch sử đó. Ông sẽ kể cho chúng ta những điều mà chưa một ai được biết. Ông chia sẻ với chúng ta những điều bí ẩn trong tâm hồn ông, và như thế chúng ta trở nên những người bạn của ông.

     Khi chia sẻ câu chuyện cuộc đời bạn và nói về chính bản thân bạn cho một ai đó, là bạn bước vào một mối tương quan. Thiên Chúa muốn có tương quan với chúng ta. Chúng ta được dựng nên vì điều đó. Chúa Giê-su ban tặng chính Người cho chúng ta trong lúc Hiệp Lễ, nhưng Chúa còn muốn hơn thế nữa. Người muốn tấm lòng chúng ta. Chúa Giê-su đã dạy dỗ riêng các Tông Đồ. Người đã mặc khải cho họ biết những điều ẩn giấu trong lòng. Chúng ta cũng có thể xin Chúa làm cho chúng ta điều tương tự như thế. Tất cả những điều bí mật này có trong Thánh Thể. Chúng ta có thể suy niệm các mầu nhiệm Rất Thánh Mân Côi, những mầu nhiệm về cuộc đời của Chúa Giê-su, ngang qua Thánh Thể. Chúa Giê-su thực sự hiện diện trong Thánh Thể trọn vẹn cả Mình, Máu, Linh Hồn, và Thiên Tính của Người. Khi chúng ta biết kết hợp vũ khí mạnh nhất của thời đại chúng ta là Kinh Mân Côi với Sự Hiện Diện Thật của Chúa chúng ta trong Thánh Thể, chúng ta đang thực sự được ngồi cạnh Chúa Giê-su và Mẹ Maria trong căn phòng nội tâm của lòng mình. Chúng ta hãy xin Đức Mẹ Thánh Thể ban cho chúng ta những ơn cần thiết để tiến bước nhờ Chúa, với Chúa và trong Chúa; để “xuất phát từ quy tâm điểm mà đi đến những tia sáng;”[3] để mở lòng ra trước sự Hiện Diện của Chúa, ngồi dưới chân Chúa, và lãnh nhận “chỉ một điều cần thiết mà thôi.” (Lc 10,42).

Lời Cầu Nguyện Khởi Đầu

     Cầu nguyện là nhân đức cao trọng nhất của con người. Cầu nguyện bào hàm các nhân đức khác, vì tất cả các nhân đức đều là một sự chuẩn bị cho và là thành phần của nhân đức cầu nguyện. Đức tin thì tin tưởng, đức cậy thì cầu nguyện, và đức ái thì khấn xin ơn cho người khác; đức khiêm nhường trong tâm hồn tạo nên lời cầu nguyện, đức can đảm đọc lên lời cầu nguyện, và đức kiên nhẫn chinh phục được Thiên Chúa. Kinh Nguyện Thánh Thể rất có công hiệu: nó tiến thẳng đến Thánh Tâm Thiên Chúa tựa như mũi tên rực lửa; nó làm sống động việc làm và hành động của Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể; nó biểu lộ quyền năng của Chúa. Người tôn thờ vẫn đang làm một điều có công hiệu nhiều hơn thế nữa: họ cầu nguyện nhờ Chúa Giê-su Ki-tô và chia sẻ vai trò của Chúa chúng ta, vai trò làm Đấng Trung Gian Chuyển Cầu với Chúa Cha và Đấng Bảo Trợ cho các anh chị em đã được Chúa cứu chuộc.[4]

Chính Nhờ Người, Với Người, và Trong Người

     Kinh Mân Côi bắt đầu với Dấu Thánh Giá, Kinh Tin Kính, một kinh Lạy Cha ở hạt lớn đầu tiên của đầu dây chuỗi tràng hạt, và ba kinh Kính Mừng ở ba hạt nhỏ đầu tiên của đầu dây chuỗi tràng hạt. Chúng ta dâng ba kinh Kính Mừng này để xin ơn gia tăng ba nhân đức đối thần: đức tin, đức cậy và đức mến. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ mặc cho chúng ta các nhân đức của Mẹ trong khi chiêm ngắm Chúa Giê-su trong Bí tích Cực Trọng.

     Nhân đức đầu tiên mà chúng ta cầu xin là đức tin. Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô dạy chúng ta rằng Chúa Giê-su trong Thánh Thể “là đối tượng và nguồn trợ lực của đức tin chúng ta”[5]. Chúng ta có thể nhìn thấy Chúa mặc dù Chúa bị che khuất. Chúng ta nhìn thấy bánh và rượu, nhưng chúng ta biết đó là chính Chúa chúng ta. Chúng ta nói: “Con tin, xin Chúa giúp lòng tin yếu kém của con” (Mc 9,24). Với sự đồng thuận của ý chí, chúng ta mở lòng sẵn sàng lãnh nhận ơn đức tin và để đức tin lớn lên trong tâm hồn mình. Chúng ta càng dành nhiều thời giờ cho sự hiện diện trước Thánh Thể Chúa, thì lòng mến Chúa trong chúng ta càng được nuôi dưỡng và lớn mạnh. Và lòng mến của chúng ta càng lớn mạnh, thì đức tin của chúng ta càng tăng trưởng theo tỷ lệ thuận. “Một người có sự thấu hiểu thuần khiết về Thánh Thể, thì một cách tương ứng họ cũng có một tình yêu và sự thanh khiết như vậy trong đời sống mình.”[6]

     Chúng ta có niềm hy vọng vào Thiên Đàng mai sau, và trong khi chờ đợi, chúng ta được cảm nếm Thiên Đàng ngay tại thế là chính Chúa Giê-su Thánh Thể. Sách giáo lý Baltimore định nghĩa Thiên Đàng là “tình trạng của đời sống vĩnh cửu mà ở đó chúng ta gặp Thiên Chúa diện đối diện, được trở nên giống Thiên Chúa trong ánh vinh quang, và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu.”[7] Chúng ta thấy Chúa Giê-su trong Thánh Thể. Cho dù giác quan không cảm thấy gì, nhưng linh hồn chúng ta có thể thấy Người, có thể đàm đạo với Người, và ở với Người. “Hãy bình tĩnh lại và hãy biết  rằng Ta đây là Thiên Chúa” (Tv 46,11). Vì vậy, khi chúng ta muốn cầu nguyện để gia tăng đức cậy, chúng ta hãy nhìn vào Chúa trong Thánh Thể và hãy nghỉ ngơi trong Người. Chúng ta nghỉ ngơi trong Chúa vì tin chắc rằng lời Chúa hứa là chân thật, rằng Chúa ở cùng chúng ta cho đến tận thế.

     Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô nói rằng chiêm niệm là nguồn mạch của đức mến và tình yêu. Khi chúng ta suy nghĩ cách thức chiêm niệm, chúng ta chỉ cần nhìn vào mẫu gương của Đức Mẹ, đấng có đủ mọi nhân đức cao trọng nhất. “Và Đức Ma-ri-a hằng ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng.” (Lc 2,19). Mẹ Ma-ri-a  đã hiện diện với Chúa Giê-su, Mẹ đã suy gẫm và chiêm niệm. Chính Mẹ đã sẵn sàng trở thành mạch thông chuyển ân sủng của Thiên Chúa đến cho nhân loại. Cho đến bây giờ Mẹ vẫn đang làm như vậy. Khi đọc Kinh Kính Mừng để xin ơn gia tăng đức mến, chúng ta chỉ cần xin Mẹ dạy chúng ta cách chiêm ngắm các nhân đức của Con Mẹ trong Thánh Thể. Khi được liên kết với nguồn mạch đức ái và tình yêu đó, chính chúng ta sẽ trở thành những máng trung chuyển ân sủng của Thiên Chúa cho người khác. Đức ái và tình yêu sẽ tuôn trào từ chính Thánh Tâm Chúa đến tâm hồn chúng ta, và từ tâm hồn chúng ta đến với người lân bang xóm giềng. Khi chiêm ngắm Chúa Giê-su trong Bí Tích Cực Trọng, chúng ta đang yêu mến Thiên Chúa như chính Chúa và yêu mến tha nhân như chính bản thân mình.

     “Cầu nguyện là nhân đức cao trọng nhất của con người”[8] Khi chúng ta cầu nguyện với Chúa Giê-su trong Thánh Thể để xin gia tăng ba nhân đức đối thần, chúng ta đang thực sự tham dự vào lời nguyện của Chúa Giê-su dâng lên Chúa Cha, cùng với Người và trong Người. Chúng ta không cần lo lắng mình cầu nguyện đã đủ chưa hay đúng chưa. Thậm chí không cần nói gì cả! Chỉ cần nâng tâm hồn lên với Chúa trong Thánh Thể và Người sẽ cất giấu chúng ta vào trong chính những thương tích của Người. “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11). Hãy kêu cầu Mẹ giúp chúng ta cầu nguyện với tâm tình phó thác như trẻ nhỏ, và xin Mẹ đồng hành với chúng ta khi chúng ta cầu khẩn Cha trên trời gia tăng đức tin, đức cậy và đức mến cho chúng ta, nhờ Đức Giê-su trong Thánh Thể.

Các Mầu Nhiệm Sự Thương

1. Sự Buồn Rầu Đau Đớn Trong Vườn Ô-liu

     Chúa đã phải chịu đau khổ buồn sầu trong Vườn Ô-liu. Tại vườn Giệt-si-ma-ni, Chúa Giê-su lo buồn đến chết khi nghĩ về Cuộc Khổ Hình đầy ô nhục mà Người sắp phải chịu. … Nhưng giờ đây tại Bữa Tiệc Ly, có một cuộc chiến nội tâm đầy cam go đang diễn ra trong Chúa Giê-su! Thật đau đớn thay! … Trái tim Chúa Giê-su thực sự đã không hề nao núng, càng không hề do dự, mà chỉ đau đớn. Người nhìn vào Cuộc Khổ Nạn với một chiều hướng mới mỗi ngày trong Bí tích Tình Yêu… Vậy Người đã làm gì? Người đã dâng hiến chính Thân Mình. Người đã cho đi chính mình như thế.[33]

     Người đã biết trước sự thờ ơ lãnh đạm của những kẻ đi theo Người: Người đã biết cả của tôi nữa; Người biết rõ chúng ta đã không sinh nhiều hoa trái sau khi Rước Lễ. Nhưng Chúa vẫn yêu chúng ta trước sau như một, đã muốn yêu nhiều hơn là được yêu, nhiều hơn bất cứ tình yêu nào mà con người có thể dành để đáp đền tình yêu của Chúa.[34]

Hãy Đến Đây  

     Mầu nhiệm Chúa chịu đau khổ tại Vườn Ô-liu dạy chúng ta về sự sám hối đích thực (cũng gọi là ăn năn tội cách trọn). Khi chúng ta suy niệm về sự buồn sầu và đau khổ của Chúa, tâm hồn chúng ta rộng mở để thấu cảm với Người. Chúng ta thấy nhân tính của Chúa Giê-su đau khổ tột cùng, đến tận cái chết, và nhận ra rằng chính chúng ta là nguyên nhân của nỗi đau đớn ấy, từ đó chúng ta giục lòng sám hối thực sự, một “sự buồn sầu trong tâm hồn và chán ghét tội lỗi đã phạm, đồng thời quyết tâm chừa tội” (SGLCG, 1451). Ân sủng của Chúa sẽ cứu chúng ta thoát khỏi cơn tuyệt vọng và giúp chúng ta xa lánh tội lỗi. Bằng một lời từ Thánh Tâm Chúa hiện diện trong Bánh Thánh, tâm hồn chúng ta được thấu suốt và được đổ tràn lòng thương xót của Người. Đau buồn trở thành niềm vui, và bằng một tấm lòng biết ơn chúng ta ca ngợi và tôn thờ Chúa.

     Thánh Ê-ma dạy rằng sự thương khó của Chúa chúng ta đã bắt đầu ngay tại Bữa Tiệc Ly. Đó là thời khắc mà Người đã hăm hở đợi chờ bấy lâu nay, lúc đó Người đã biết là sẽ bị đối xử như thế nào trong Thánh Thể và Trái Tim Người bị đau đớn. Chúa đã biết là có bao nhiêu người thờ ơ với Người. Chúa đã biết là có bao nhiêu Giu-đa phản bội Người, bao nhiêu Phê-rô chối bỏ Người. “Chúa đã biết trước sự thờ ơ lãnh đạm của những kẻ đi theo Người: Người đã biết cả của tôi nữa”[35]. Chúa Giê-su biết rõ tất cả những đau khổ Người phải chịu, nhưng dù sao đi nữa, Người đã chọn dâng hiến chính Thân Mình. Tình yêu của Chúa dành cho chúng ta lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Nơi Bí Tích Thánh thể, Người kiên nhẫn chờ đợi chúng ta đến và khóc dưới chân Người. Người muốn chúng ta đến với Người bằng sự đơn sơ giản dị của trẻ thơ.

     Một lần nọ, một trong các con trai của tôi đã làm một việc khiến tôi rất buồn. Cậu bé đã cảm thấy xấu hổ và thất vọng về hành vi của mình, nhưng khi cậu thấy tôi buồn, cậu đã chạy lại ôm chặt lấy tôi và xin lỗi, cậu đã hứa sẽ không tái phạm, và sau cùng, cậu còn nài nỉ tôi đừng buồn chi nữa. Nỗi đau làm tôi bị tổn thương thì lớn hơn sự hổ thẹn vì vi phạm kỷ luật. Tình yêu thì lớn hơn nỗi sợ hãi của cậu bé và cậu đã tìm cách an ủi tâm hồn tôi. Tôi rất cảm động trong lòng và mẹ con tôi đã ôm chặt lấy nhau mà khóc. Khi đó không cần nói gì cả. Tim chúng ta nói trong lặng thinh và trong nước mắt. Cũng vậy, khi chúng ta chạy đến với Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể với một tâm hồn thống hối, khi chúng ta lấy tình yêu để đáp đền tình yêu của Chúa, thì tất cả mọi nỗi thống khổ sẽ tan biến và chỉ còn lại tình yêu.

2. Chúa Bị Trói Vào Cột Đá Để Chịu Đánh Đòn

     Thánh Thể là cột thu lôi thần linh giúp chúng ta tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Công Bình. Như một người mẹ hiền từ và tận tụy ôm chặt con mình vào lòng, dang đôi tay ra bảo vệ con, lấy thân mình che chắn con trước sự tức giận của người cha; một cách tương tự, Chúa Giê-su hiện diện khắp mọi nơi bằng nhiều cách khác nhau, bao bọc và che chở nhân loại bằng sự hiện diện đầy thương xót của Người. Đức Công Chính của Thiên Chúa không hề biết tấn công nơi đâu; không cần thiết.[36]

Hãy Cầm Lấy Mà Uống

     Mầu nhiệm Chúa chịu đánh đòn tại cột đá dạy chúng ta về sự kiềm chế, một đức tính kiên nhẫn chịu đựng phi thường trước sự hung hăng khiêu khích. Với nhân đức phi thường này, Chúa Giê-su đã trải qua cuộc thương khó vì tình yêu dành cho chúng ta. Bị trói chặt vào cột đá, Chúa Giê-su đã vui lòng hứng chịu roi đòn vì chúng ta, để chịu tội thay cho chúng ta và để dạy chúng ta nhân đức chịu đựng như Người. Trong Thánh Thể, Người tiếp tục trở nên mẫu gương chịu đựng cho chúng ta. Hiện diện dưới hình bánh rượu, Người chờ đợi chúng ta, và tiếp tục chuyển cầu cùng Chúa Cha cho chúng ta mãi đến ngày sau hết.

     Giữa những tấn công dữ dội của cuộc đời, và những roi đòn khổ đau vì tội lỗi của chính mình, chúng ta thoi thóp nhớ rằng “ơn phù trợ của tôi đến từ Đức Chúa” (Tv 121,2). Khi bị quá nhiều đau khổ, chúng ta sẽ trở nên thẫn thờ; giữa những tra tấn và máu me chúng ta tìm kiếm thánh nhan Chúa và cầu nguyện: Lạy Chúa! “xin che chở con dưới cánh của Ngài!” (Tv 17,8).

Đòn roi vẫn còn đó, nhưng giờ đây chúng ta đã được bao bọc chở che bởi Thân Mình Chúa. Người bảo vệ chúng ta bằng chính Người để chúng ta được mạnh sức. Chúng ta thấy dung nhan tuyệt hảo của Chúa vẫn yêu thương chúng ta, mặc dù nỗi đau đớn làm cho nét mặt của Người nhăn nhó. Người vui lòng chịu khổ đau vì chúng ta, hầu dạy chúng ta điều nên làm. Người truyền chúng ta hãy uống Máu Người, máu đổ ra từ chính những thương tích của Người. Được ngây ngất say (mê say) trong chén máu cứu độ, chúng ta sẽ thốt lên: “Chúa ban xuống lòng con nhiều hoan lạc, hơn khi thiên hạ được mùa lúa rượu đầy dư” (Tv 4,8). Với niềm vui say thỏa thuê này, chúng ta sẽ nhận biết việc phải làm. Chúng ta cũng biết chịu đựng nhờ ơn Chúa giúp. Chúng ta trở nên giống như Chúa trong phận vụ của mình là yên ủi những người thân cận đang yếu nhọc. Chúng ta trao chén yêu thương và bảo họ: hãy cầm lấy mà uống, vì đây là Máu của Chúa đã đổ ra cho anh chị em.

3. Chúa Giê-su chịu Đội Mão Gai

     Một người bạn hoặc một vị vua khi cải trang vi hành mà vẫn được tôn trọng, thì sự tôn trọng đó lớn lao hơn những thứ khác, bởi vì người đó thực sự là một nhân vị nên đáng được tôn trọng, chứ không phải là vì những trang sức hay y phục bề ngoài của họ. Cũng vậy đối với Chúa Giê-su trong Bí Tích Thánh Thể; tôn vinh Người, tin vào thiên tính của Người dù cho thần tính đó bị che phủ bởi bức màn của sự yếu nhọc, là tôn vinh Ngôi Vị Thần Linh của Chúa Giê-su và kính trọng các mầu nhiệm bao phủ cuộc đời của Người.[37]

     Hiệp cùng bốn sinh vật và hai mươi vị Kỳ Mục là những người đã phủ phục xuống dưới chân Con Chiên, hãy đặt toàn bộ con người bạn, các năng lực của bạn, và mọi công việc của bạn mà phủ phục dưới ngai tòa Thánh Thể Chúa chúng ta và thưa rằng: “Mọi vinh quang và tình yêu đều quy về Ngài! … Hội Thánh ủy thác Thiên Chúa trong Thánh Thể cho bạn để bạn có thể đại diện Hội Thánh mà ở lại dưới chân Chúa; Hãy kính dâng Chúa sự tôn thờ của Hội Thánh.”[38]

Con có Yêu Ta không?

     Mầu nhiệm Chúa chịu đội mão gai dạy chúng ta về đức can đảm. “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật.” (Is 53,3) Khi nhìn hình ảnh Chúa Giê-su đội mão gai, chúng ta nhận ra một sự trái nghịch; chúng ta thấy một con người đau khổ chứ không phải là một vị vua. Ngày nay sự nghịch lý đó vẫn còn hiện hữu nơi Thánh Thể.  “Vẻ ngoài yếu nhọc nơi Người” khiến chúng ta không còn nhận ra dung nhan Chúa nữa. Liệu chúng ta có còn can đảm tôn vinh Chúa là Vua chúng ta nếu phải chứng kiến cảnh Chúa bị chế giễu và bị xỉ vả? Và ngày nay chúng ta có can đảm tôn vinh Người nơi Bí Tích Thánh Thể không?

     Một trong những hoa trái của Bí Tích Thêm Sức là “ban cho chúng ta sức mạnh đặc biệt của Chúa Thánh Thần để loan báo và bảo vệ đức tin bằng lời nói và hành động như những chứng nhân đích thực của Đức Ki-tô, để dũng cảm tuyên xưng danh Chúa Ki-tô, và chẳng bao giờ hổ ngươi vì Thập Giá” (SGLCG, 1304). Trong sự nghịch lý của Thánh Thể, một thách thức được đưa ra cho chúng ta: hoặc Chúa đúng là Đấng như Người đã khẳng định Người là, hoặc không phải thế. Nếu chúng ta tin Người là Vua, thì chúng ta phải thần phục Người, và không bao giờ hổ thẹn vì Thập Giá.

     Một lần nọ khi đang chầu Thánh Thể, tôi ngồi ở phía cuối nhà thờ với ánh sáng mập mờ. Khói trầm hương bay cao ngào ngạt hòa cùng ánh nến trên bàn thờ. Khi nhìn xuống sàn nhà thờ từ Mặt Nhật, tôi đã thấy dáng dấp một ai đó trên sàn nhà thờ. Đó là vị linh mục đang phủ phục trước Con Chiên như cách người đã phủ phục khi được truyền chức linh mục. Cảnh tượng này đã gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi. Thực tế đã quá rõ ràng trước mắt tôi, vị linh mục đã can đảm tuyên xưng Thánh Danh Giê-su bằng chính hành động của mình. Với bản thân, tôi cũng muốn sấp mình xuống trước Chúa Giê-su Thánh Thể nhưng lại e dè sợ hãi. Mọi người sẽ nghĩ thế nào về tôi? Liệu tôi có thể trỗi dậy một cách lịch sự khi phủ phục dưới sàn nhà thờ không? Tôi có nên trò cười khi phủ phục như thế không? Những băn khoăn này cứ dằn vặt trong tâm hồn tôi suốt giờ chầu và tôi thoáng buồn ra về. Nhưng khát khao được phủ phục trước Chúa Giê-su Thánh Thể vẫn chưa hề nguôi ngoai trong tôi, vài tháng sau đó, Chúa đã đổ đầy ơn can đảm trên tôi, để cuối cùng, tôi thực hiện được ước nguyện ấy, và thật sự đó chính là một khoảnh khắc ân sủng. Chúng ta không cần phải sấp mình xuống trước Thánh Thể Chúa về mặt thể lý để tỏ lòng thần phục Người, nhưng chúng ta cần cầu xin ơn can đảm để loan truyền với tất cả con người của mình rằng: “Mọi vinh quang và tình yêu đều quy về Ngài![39]

4. Chúa Giê-su Vác Thập Giá

     “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14,6). Chúa chúng ta đã nói những lời này ngay khi Người còn ở với các môn đệ, nhưng Người muốn ám chỉ cho các ông hiểu là cần vượt xa khỏi khoảng thời gian ngắn ngủi của cuộc đời dương thế của Người. Những lời này áp dụng cho mọi thời; bởi Người có thể lặp lại những lời này trong Bí Tích Thánh Thể với đầy đủ ý nghĩa của chúng như tại Giu-đê-a xưa kia. … Trong Thánh Thể, Người không còn thể hiện các hành vi nhân đức, nhưng Ngài vẫn đảm nhận chúng như cách thế hiện hữu của Người. Chúng ta cần thực hiện các hành vi và như thế, một cách nào đó, chúng ta hoàn tất công việc của Chúa. Người trở thành một ngôi vị mầu nhiệm mà trong đó chúng ta là những chi thể sống động của Người, Thân Mình mầu nhiệm của Chúa mà trong đó Chúa là Đầu và là Trái Tim; để rồi Người có thể nói: “Thầy hằng hữu.” Như thế là chúng ta hoàn trọn và làm cho Người sống mãi.[40]

Hãy Theo Thầy

     Mầu nhiệm Chúa vác Thánh Giá chỉ ra cho chúng ta con đường phải đi nếu muốn trở thành môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô. Chính việc ôm chặt Thánh Giá và đi trọn con đường khổ nạn (Via Dolorosa) lên đồi Can-vê, Chúa đã biểu lộ tất cả các nhân đức cần thiết để hoàn thành sứ vụ. Giờ đây Người vẫn biểu lộ các nhân đức ấy nơi Thánh Thể, để chúng ta là thân mình mầu nhiệm của Chúa có thể học đòi bắt chước Người mà “hoàn trọn và làm cho Người sống mãi.”[41]

     “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16,24). Những lời này của Chúa Giê-su để lại cho chúng ta một lược đồ rõ ràng về cách thế tìm ra kho báu Nước Trời. Đây là con đường thẳng tiến mặc dù là Via Dolorosa, tức là con đường đau khổ. Chúng ta không chỉ đi theo Chúa trên con đường đau khổ, nhưng còn chịu đau khổ là mang lấy thập giá của riêng mình hàng ngày. Mỗi sáng khi nhìn thấy thập giá đời mình, chúng ta hãy sẵn sàng mang lấy nó như Chúa đã làm, vì đó là chìa khóa giúp chúng ta tiến vào Nước Trời. Mỗi khi vấp ngã, chúng ta biết rằng Đức Mẹ vẫn luôn ở bên và phù trợ để đỡ nâng chúng ta đứng dậy. Đôi lúc bên cạnh chúng ta có một người như ông Si-mon thành Xi-ri hay bà Vê-rô-ni-ca để trợ giúp chúng ta, cũng có đôi lúc chúng ta được mời gọi trở thành những người đồng hành để ủi an người khác. Chúng ta sẽ bị chế giễu và bị lăng nhục; chúng ta sẽ ngày càng thêm mệt mỏi và tự hỏi rằng chúng ta có thể tiếp tục nữa không; rồi máu và mồ hôi sẽ tràn xuống khóe mắt chúng ta nữa. Chúng ta sẽ không còn thấy Chúa Giê-su trước mặt và tự hỏi liệu Người có còn ở bên chúng ta không.

     Chúa Giê-su biết những yếu đuối và những khó khăn trên đường đời thập giá của chúng ta, vì vậy Người không chỉ hướng dẫn chúng ta bằng cách trải qua con đường thập giá trước chúng ta, mà còn trối lại chính Người âm thầm hiện diện trong Thánh Thể để nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng ta. Từ nơi Thánh Thể, giọng Người vang vọng trong tim chúng ta: “Thầy là con đường, là sự thật, và là sự sống” (Ga 14,6). Hãy nghiệm xem Chúa hiền lành biết bao và thầm lặng dường nào trong Thánh Thể. Hãy hiền lành như Chúa. Hãy nghiệm xem cách Chúa kiên nhẫn đợi chờ chúng ta nhận ra rằng có một điều vĩ đại hơn trong Thánh Thể, rằng Chúa là mọi sự mà chúng ta cần. Hãy trở nên kiên nhẫn giống như Người. Hãy nghiệm xem Chúa nghèo khó, dịu dàng, mạnh mẽ, tín trung, quên mình, và yêu thương biết dường nào. Hãy nên giống Chúa. Người muốn chúng ta rước lấy Người và trở nên một với Người, ngõ hầu khi chúng ta mang lấy thập giá của mình, thì có Chúa ở trong chúng ta và cùng vác với chúng ta. Khi Người hành động trong chúng ta và chúng ta hành động trong Người, thì chúng ta liên kết các đau khổ của mình với Người để hoàn trọn và làm cho Người sống mãi. Như thế chúng ta có thể nói như thánh Phao-lô: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).

5. Chúa Chịu Đóng Đinh

     Quả thật Thánh Thể là hiệu quả của cái chết của Chúa Giê-su. Thánh Thể là một di chúc, một di sản chỉ sinh hiệu quả khi người làm di chúc mất đi. Vì vậy để chúc thư của Người có hiệu lực thì Chúa Giê-su phải chết đi. Mỗi lần chúng ta bước vào sự hiện diện của Thánh Thể, chúng ta có thể nói: Chúc thư quý báu này trả bằng chính mạng sống của Đức Giê-su Ki-tô; Người tỏ cho chúng ta tình yêu vô biên của Người, vì thế chính Người đã khẳng định rằng không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình.[42]

Hãy Cho Con Thấy Các Thương Tích của Ngài

     Mầu nhiệm Chúa chịu đóng đinh dạy chúng ta nhân đức anh hùng. Giáo lý dạy rằng “nhân đức anh hùng giúp chúng ta chiến thắng nỗi sợ hãi, thậm chí là sự chết khi đương đầu với gian nan và bắt bớ” (SGLCG, 1808). Khi chúng ta nhìn hy tế thập giá dưới lăng kính Thánh Thể, chúng ta có thể tận mắt nhìn thấy những sự sau hết. Chúng ta có thể nhìn lên Thánh Giá với niềm hy vọng và không còn tuyệt vọng nữa.

     Chúng ta đến với Thánh Thể, bằng chứng sống động về tình yêu của Chúa, và hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta con đường đến với Người; chỉ cho chúng ta con đường Thập Giá; chỉ cho chúng ta thấy những thương tích vinh hiển của Người, suối nguồn xót thương nhờ đó chúng ta được chữa lành; chúng ta nhìn thấy các thương tích và nhớ lại giá máu Chúa đã đổ ra vì chúng ta; chúng ta thấy Chúa đã chịu khổ đau biết bao nhiêu vì yêu thương chúng ta; chúng ta chạm vào các vết thương của Người và tuyên xưng như thánh Tô-ma rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28); chúng ta hiểu cái chết của Chúa Ki-tô là mệnh giá của quà tặng hiến thân của Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể, và tâm hồn chúng ta cảm động biết ơn. Lòng tri ân khiến chúng ta luôn muốn đền đáp lại ơn Chúa, nhưng chúng ta lấy gì mà đáp đền Chúa đây? Chúng ta chỉ có tấm lòng tan nát khiêm cung. Chúng ta hãy cho Chúa thấy những thương tích và nỗi đau của mình. Người mong chờ điều đó. Người chạm vào thương tích của chúng ta và cất giấu chúng vào trong các thương tích của Người; biến đổi chúng bằng tình yêu và xua trừ mọi nỗi sợ hãi. Qua đau khổ, chúng ta được liên kết trong sự ấp ủ thương yêu thâm sâu của Chúa. Chúng ta nhận ra sự dịu ngọt của thập giá, sự ngọt ngào vì được trở nên một với Chúa. Đau khổ của chúng ta vẫn còn đó, nhưng chúng ta không cô đơn và không sợ hãi.

     Khi nỗi sợ hãi tan biến, chúng ta có thể  nhìn đau khổ dưới ánh sáng Thánh Thể. Chúng ta hiểu rằng nhờ sự liên kết nỗi đau khổ của chúng ta với nỗi đau khổ của Chúa mà chúng ta khám phá ra con đường thông chuyển lòng thương xót của Chúa đến với chúng ta, và từ chúng ta đến với tha nhân. Đó chính là Thánh Thể, ý muốn và di chúc cuối cùng của Chúa cho chúng ta, hầu chúng ta có thể tìm được sức mạnh cần thiết để dám chết đi cho ý riêng của bản thân và sẵn sàng đón nhận đau khổ trên đường đời.

Các Mầu Nhiệm Sự Mừng

1. Chúa Giê-su Sống Lại

     Quả thật vinh quang của các thánh và các phúc nhân chính là hoa trái trổ sinh chỉ trong ánh thái dương của Thiên Đàng và trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta chẳng thể an hưởng vinh quang chói lọi này trên thế gian được; mọi người ắt sẽ cúng bái chúng ta đấy thôi. Nhưng chúng ta lãnh nhận hạt giống vinh quang vĩnh cửu còn tiềm ẩn mà trong đó chất chứa toàn vẹn ánh vinh quang rạng ngời, tựa như trong hạt giống lúa mì có chứa dé của bông lúa mì. Thánh Thể cất giữ trong chúng ta khối men phục sinh, nguồn mạch vinh quang riêng biệt và rạng ngời hơn, mà nó sau khi được gieo vào thân xác phải hư nát này sẽ chiếu sáng trong thân xác phục sinh và bất diệt của chúng ta.[43]

     Hiệu quả cuối cùng của Thánh Thể là sẽ làm cho chúng ta được chung phần vào vinh quang phục sinh của Người. Chúa Giê-su Ki-tô đã gieo hạt giống sự sống của chính Người trong chúng ta; Chúa Thánh Thần sẽ làm cho sự sống ấy tăng trưởng và qua đó sẽ truyền cho chúng ta một sự sống mới, một sự sống vinh hiển và chẳng bao giờ tàn lụi.[44]

Hãy Tin Vào Thầy

     Mầu nhiệm Chúa phục sinh dạy về ơn đức tin của chúng ta. Chúa Ki-tô sống lại đã hứa cho chúng ta cũng được sống lại với Ngài và Thánh Thể mà chúng ta rước lấy chính là hạt giống lời hứa ấy, lời hứa sự sống vinh hiển không bao giờ tàn lụi.

     “Thánh Thể giữ chúng ta trong khối men phục sinh”[45]. Chất men này chính là một sự hiện diện rộng khắp có khả năng lan tỏa khắp nơi và biến đổi mọi thứ trở nên tốt hơn. Cũng vậy, Thánh Thể là chính Chúa Phục Sinh sẽ gieo vào chúng ta hạt giống Thân Mình Ngài để biến đổi chúng ta trở nên điều chúng ta lãnh nhận.

     Chúng ta cần cẩn thận tìm kiếm chồi non nẩy mầm trong mỗi người giữa đám cỏ dại trong vườn mà không dẫm đạp lên những cây non ấy. Chúng ta cần tìm kiếm những sự thánh mà Chúa đã đặt để nơi bản thân mà vẫn chưa trổ sinh hoa trái và cần chúng ta chăm nom và bón phân mỗi ngày. Việc tương trợ lẫn nhau để phát triển trong sự thánh thiêng đòi buộc chúng ta phải ở lại gần bên Thánh Thể và khích lệ nhau hầu chúng ta được cùng thánh Phao-lô khẳng khái lên tiếng nói: “Tất cả chúng ta, mặt không màn che, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (2 Cr 3,18).

     Chính ơn đức tin trong một cuộc đời vinh hiển với Chúa Ki-tô sẽ giúp chúng ta trưởng thành ở dưới thế. Ơn đức tin này sẽ giúp chúng ta chống chọi trước thử thách vì “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24); do vậy, chúng ta không thể chỉ đón nhận mầu nhiệm phục sinh mà bỏ qua biến cố Chúa chịu chết vào thứ sáu tuần thánh. Chúng ta phải kiên nhẫn đợi chờ ánh sáng phục sinh sẽ xua tan đêm tối. Nhờ Thân Mình Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể mà chúng ta có thể làm triển nở hoàn toàn hạt giống Phục Sinh được giữ kín trong mình. Như thế chúng ta sẽ nhận được ánh sáng được chiếu soi từ Thiên Đường, nơi có Chúa hiện diện.

2. Chúa Lên Trời

     Để chúng ta duy trì được niềm hy vọng Nước Trời và cho niềm hy vọng này triển nở, để có được sự kiên nhẫn mong chờ vinh quang Nước Trời và dẫn dắt chúng ta, Chúa đã làm ra Nước Trời này trong Thánh Thể. Vì Thánh Thể là Nước Trời tươi đẹp; đó là khởi đầu của Nước Trời. Đó chẳng phải là Chúa Giê-su được tôn vinh từ trời đến thế gian và Ngài được đem lại lên trời? Chẳng phải Thiên Đàng là nơi có Chúa hiện diện sao?Ngài ở đây dù giác quan không nhận thấy nhưng là một tình trạng vẻ vang, khải hoàn và vinh phúc. Ngài đã loại bỏ những điều huyền bí trong cuộc đời này; Khi đi vào sự hiệp thông, chính chúng ta lãnh nhận Nước Trời vì chúng ta đã rước Chúa Giê-su, Đấng là tất cả niềm hân hoan và vinh hiển trên Trời.

     Nhờ sự hiệp thông mà linh hồn Ngài được đưa lên với Thiên Chúa. Vì cầu nguyện được đinh nghĩa là nâng tâm hồn lên tới Chúa? Vậy cầu nguyện có giá trị gì khi so với sự hiệp thông? Điều khác biệt giữa sự siêu thăng suy nghĩ và ước muốn của chúng ta khi cầu nguyện và sự siêu thăng mang tính bí tích nằm ở nơi Đức Giê-su khi chính Ngài nâng chúng ta lên rất gần với Thiên Chúa.[46]

Nâng Tâm Hồn Lên

     Mầu nhiệm Chúa thăng thiên dạy chúng ta về đức cậy, niềm hy vọng Nước Trời. “Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,3). Chúa Giê-su nói những lời này ngụ ý về Thánh Thể vì “Để cho chúng ta duy trì được niềm hy vọng Nước Trời, Chúa đã làm ra Nước Trời này trong Thánh Thể.”[47]

     Trong niềm hiệp thông, Chúa Giê-su đã xuống thế để ở với chúng ta. Tình yêu tìm kiếm tình yêu. Ngài gõ cửa và tìm thấy một tâm hồn sám hối, một vườn cây đang bị bao phủ, Ngài đã bước vào, nâng chúng ta lên với Ngài, cho chúng ta “đến rất gần với Thiên Chúa.” Trong Thánh Thể, chúng ta tìm thấy tất cả sự ngọt ngào và êm dịu của Thiên Đàng, vì Thiên Đàng là nơi có Chúa Giê-su. Chúng ta nếm hưởng được Nước Trời hơn những gì chúng ta mong chờ. Mong ước của chúng ta sẽ đi liền với niềm hy vọng mỗi khi nghe người mình yêu nói: “Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào!” (Dc 2,10).

     Sự hiện diện của Chúa Ki-tô trong Thánh Thể bao lâu hình bánh rượu còn tồn tại (SGLCG, 1377), nói chung khoảng thời gian từ 10-15 phút sau khi chúng ta rước Chúa.[48] Chúng ta hãy giữ vững thực tại này trước mắt mình mỗi khi lãnh nhận Ngài. Chúng ta hãy để Ngài chiếm ngự toàn trái tim và tâm trí vì những giây phút quý giá Ngài vẫn còn hiện diện dưới hình bánh rượu ở nơi chúng ta, đây là tất cả vinh quang và bất diệt của Ngài ở với chúng ta. Chúng ta hãy nâng tâm trí và trái tim mình lên với Ngài như hương trầm bay lên Thiên Đường Thánh Thể vì chúng ta vẫn kiên nhẫn đợi chờ Ngài rước chúng ta lên Trời cao vinh hiển.

3. Chúa Thánh Thần Ngự Xuống

     Thiên Chúa là tất cả tình yêu. Đấng Cứu Độ đáng kính luôn bênh vực cho chúng ta từ Bánh Thánh: “Hãy yêu Thầy như Thầy đã yêu con; hãy chịu đựng vì tình yêu Thầy! Thầy đến để ném lửa tình yêu vào thế gian và Thầy những mong muốn lửa ấy cháy bùng lên trong tâm hồn các con.” Ôi! Chúng ta nên nghĩ về Thánh Thể khi gần kề cái chết hay là sau khi đã chết đi vì chúng ta sẽ thấy và biết tất cả dịu ngọt, tất cả yêu thương và tất cả sự giàu có của Thánh Thể.[49]

Hãy Mở Lòng Ra Với Ta

     Mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống dạy chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, uy hùng như một con gió lớn đã ngự xuống trên các tông đồ và Mẹ Ma-ri-a dưới hình lưỡi lửa. Chúa Thánh Thần không phải lúc nào cũng xuất hiện cách ồn ào như vậy. Đây cũng là Chúa Thánh Thần đã dùng quyền năng biến đổi bánh và rượu trở thành Minh và Máu Chúa trong suốt Thánh Lễ và Ngài cũng đã nhẹ nhàng đi vào tâm hồn chúng ta để làm bừng lên ngọn lửa yêu mến Chúa nơi chúng ta.

     Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong suốt Thánh Lễ thì yên ắng và nhẹ nhàng giống như hạt sương rơi. Nhờ bàn tay của vị tư tế thừa tác trong thời khắc đó, Chúa Thánh Thần đã biến đổi của lễ do bàn tay con người trở thành Mình và Máu Chúa Giê-su Ki-tô, điều nay vượt quá trí hiểu của chúng ta. Giống như khi chúng ta chọn đúng thời điểm để hấp thụ hết ánh sáng mặt trời, thời điểm Chúa Thánh Thần ngự xuống là lúc Ngài hoạt động cách hiệu quả và đầy quyền năng nhất. Sự hiện diện yên ắng và nhẹ nhàng này đã cùng Ngài đem lửa yêu thương của Thiên Chúa đến bởi vì chính Ngài là tình yêu của Thiên Chúa.

     Trong một Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta nghe thấy vị tư tế đọc: “Vì thế, chúng con nài xin Chúa dùng ơn Thánh Thần Chúa thánh hoá những của lễ này…,”[50] Khi Chúa Giê-su hiện diện trên bàn thờ, chúng ta hầu như nghe thấy chính Ngài nói trong tâm hồn chúng ta: “Mở cửa cho anh vào, hỡi em gái, người bạn tình của anh, hỡi bồ câu, ôi mười phân vẹn mười!” (Dc 5,2). Ngài cử bồ câu của Thánh Thần cùng với Ngài trong Thánh Thể để gõ cửa tâm hồn chúng ta. Ngài muốn phủ đầy tình yêu của Ngài nơi trái tim chúng ta.

     Vậy làm thế nào chúng ta có thể đón nhận vị khách đặc biệt này? Chúng ta có thể liên kết lời cầu nguyện của mình với Kinh Nguyện Thánh Thể mà vị tư tế đọc để nài xin Chúa Cha gửi Thánh Thần của Ngài xuống hầu biến đổi và thánh hóa chúng ta, đồng thời để Con Ngài cư ngụ cách thích đáng trong tâm hồn mình. Vì vậy, khi chúng ta lãnh nhận Chúa Giê-su ngang qua Thánh Thể, chúng ta có thể để cho tình yêu Ngài hoàn trọn ước muốn mãnh liệt nhất, để thấu hiểu sâu sắc nơi sâu kín nhất trong tâm hồn ta đồng thời thắp lửa trong tâm hồn ta.

4. Đức Ma-ri-a Được Đưa Lên Trời

     Mẹ Ma-ri-a đã chết trong tình yêu. Vì mong ước được thấy Con Mẹ và được liên kết mật thiết với Ngài, Mẹ đã không màng đến mạng sống. Chúa Giê-su đã cho Mẹ được vinh thắng lớn lao. Thật tuyệt diệu làm sao ở thời khắc Chúa Giê-su và Mẹ tương phùng! Chúng ta qua biết rõ niềm vui của Mẹ và của Con Mẹ khi gặp nhau sau một thời gian dài xa cách.[51]

     Trong tình hiệp thông, chúng ta chắc chắn lãnh nhận được lời hứa về sự sống bất diệt: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời.” Dù mất đi sự sống tạm bợ ở thế gian nhưng điều đó chẳng đáng giá gì vì đây chỉ là một trạm dừng chân trên hành trình của sự sống đích thực.[52]

Hãy Vững Tin Ở Ta

     Mầu nhiệm Đức Mẹ được đưa về trời dạy cho chúng ta niềm tin vào thân xác phục sinh. “Sự kiện Đức Trinh Nữ được rước về trời là một sự tham sự cách riêng tư vào mầu nhiệm phục sinh của Con Mẹ và là sự hưởng trước niềm vui phục sinh của các Ki-tô hữu” (SGLCG, 968). Cũng giống như Mẹ Ma-ri-a được đưa về trời cả hồn lẫn xác, chúng ta sống trong niềm hy vọng phục sinh mà ở đó chúng ta được hiệp thông với niềm tin chắc chắn lãnh nhận được ơn sự sống vĩnh cửu.

     Trong cuốn sách Đức Mẹ Thánh Thể, cha thánh Phê-rô Giu-li-a-nô Ê-ma đã khám phá ra sự sống của Mẹ Ma-ri-a trong Nhà Tạm vào thời Giáo Hội sơ khai. Ngài đã viết: “Mẹ Ma-ri-a đã bị lôi cuốn cách mãnh liệt bởi Thánh Thể đến độ Mẹ không thể sống xa rời Bí tích Cực Trọng này.” Chúng ta khó có thể mường tượng ra tình yêu của Mẹ dành cho Chúa Giê-su thậm chí lớn hơn cả khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhưng chúng ta phải luôn nhớ rằng tình yêu khi được khởi nguồn từ Thiên Chúa nếu được dưỡng nuôi thì luôn triển nở. Tình yêu của Mẹ Ma-ri-a đối với Chúa Giê-su được dưỡng nuôi nhờ sự hiệp thông thánh thiêng và nhờ sự tôn thờ đã triển nở đến khi lòng ước muốn của Mẹ lớn hơn cả nỗi lo sợ cái chết, thậm chí Mẹ đã chết vì yêu thương.[53]

     Khi suy niệm mầu nhiệm Đức Mẹ được rước về Trời trong cánh tay yêu thương của Chúa Cha và được kết hiệp với Con Mẹ, chúng ta sẽ tràn đầy hy vọng. Mẹ luôn là Mẹ của ta và như thế Mẹ đang cầu bầu cho ta đồng thời dạy bảo và nâng đỡ ta. Chúng ta hãy noi gương Mẹ trong việc ở lại thật gần bên Chúa Giê-su trong Thánh Thể. Chúng ta hãy rước lễ hàng ngày với một tình yêu lớn lao và hãy tôn thờ Ngài trong Nhà Tạm. Chúng ta hãy nhìn Thân Mình vinh quang của Ngài vì còn ẩn dưới hình Bánh Thánh và luôn nhớ rằng Ngài muốn gieo hạt giống sự sống của chính Ngài nơi chúng ta và nâng chúng ta lên vào ngày sau hết.

5. Đức Ma-ri-a Được Đội Mũ Triều Thiên

     Chúa Giê-su đã hướng dẫn Mẹ bằng cánh tay uy quyền của Thiên Chúa. “Ôi Lạy Cha! Xin đoái nhìn đến người nữ tỳ mà Con Cha đã ở cùng nhờ việc Mẹ làm Mẹ Con trên dường thế!” – Và Cha đã đội mũ triều thiên bằng những danh hiệu cao quý nhất: Nữ Hoàng, Mẹ Thiên Chúa, Đấng Trung Gian. Trên vương miện của Mẹ Ma-ri-a có gắn ba ngôi sáng sáng với ba danh hiệu là khiêm nhương, khó nghèo và đau khổ[54].

     Tình yêu chính là ý hướng tối hậu trong sự liên kết của hai người yêu nhau, là sự tan chảy vào nhau, hai trái tim, hai tâm trí hai linh hồn trở nên một.

     … Chúng ta hiện hữu trong Ngài và Ngài hiện hữu trong ta. Chúng ta nên một với Ngài trong mối hiệp thông khôn tả vốn đã được khởi đầu ngay ở dưới thế, được hoàn trọn nơi Thánh Thể và được thành toàn trên Thiên Quốc cùng với một tình hiệp thông đời đời và vinh quang. Vì thế tình yêu hằng hữu với Chúa Giê-su hiện diện trong Bí tích Cực Trọng này. Chúng ta được sẻ chia tất cả những gì thuộc về Chúa Giê-su, trở nên một với Chúa Giê-su, Vì trái tim chúng ta luôn muốn được thỏa mãn và chẳng cần bất cứ điều gì thêm.[55]

Hãy Ra Đi

     Mầu nhiệm Đức Ma-ri-a được đội mũ triều thiên dạy chúng ta về hạnh phúc viễn mãn. Vào ngày cánh chung, Chúa cho Mẹ Ma-ri-a được phần thưởng: Mẹ sẽ mãi mãi giữ được tước hiệu Nữ Hoàng cả trên Thiên Đàng và ở dưới thế nhờ Con Mẹ. Khi lãnh nhận và tôn thờ Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể với sự đồng hành của Mẹ, chúng ta có được một Người Mẹ, một Nữ Hoàng và một Đấng Trung Gian bầu cử dể dẫn ta đến với Chúa Ki-tô. “Mẹ Ma-ri-a, thiếu nữ Xi-on, sẽ phù trợ tất cả con cái của Mẹ, bất cứ nơi đâu và bất cứ điều gì họ cần để họ có thể tìm thấy Chúa Ki-tô trên con đường dẫn về nhà Cha.”[56] Con đường này chỉ có thể được tìm thấy trong Thánh Thể, nơi có tình yêu hiện hữu và thỏa mãn mọi ước muốn của tâm hồn ta.

     Mũ triều thiên của Mẹ Ma-ri-a với “ba ngôi sao sáng” chiếu soi để chúng ta có thể thấy và noi theo trên con đường chúng ta đi. Hai nhân đức đầu tiên của Chúa là khó nghèo và khiêm nhường trong Thánh Thể; nhân đức thứ ba chính là những đau khổ Ngài đã hứng chịu ở trần thế, tất cả muốn nhắc chúng ta rằng hiện giờ Mẹ được chia sẻ cách thân mật vinh quang của Ngài trên Thiên Đàng bởi Mẹ cũng đã chia sẻ cách rất gần với những đau khổ của Ngài dưới thế. Chúng ta có thể nhận thấy ba ngôi sao không phải chiếu soi chính nó nhưng phản chiếu anh sáng của nó từ Mặt Nhật. Nơi Mặt Nhật là Chúa Giê-su trong Bí tích Thánh Thể, Đấng chúng ta đang tìm kiếm, Đấng sẽ làm no thỏa mọi khát khao trong tâm hồn ta.

     Chính đây là nơi chúng ta tìm kiếm bấy lâu. “Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.” (Mt 13,46). Chúng ta phải buông bỏ tất cả những gì nguy hại chia cắt tâm hồn ta vì giá của viên ngọc này là tất cả tâm hồn ta. Tình yêu đang cư ngụ trong Bí tích Thánh Thể đã mời gọi: “Dậy đi em, bạn tình của anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào!” (Dc 2,10), vì mục đích tối hậu của tình yêu chính là sự kết hiệp của hai tâm hồn. Sự kết hiệp “được hoàn trọn nơi Thánh Thể”[57] sẽ làm no thỏa tâm hồn ta đến “Đâu ngờ tình đượm say sưa, bước lên xa giá ngọc ngà chúa tôi.” (Được 6,12)

 

(Phần trước)


[1] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 291.

[2] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 6.

[3] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 6

[4] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 13.

[5] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 102.

[6] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 102.

[7] Baltmore, Sách Giáo Lý Cộng Giáo – quyển 1, 49.

[8] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 13.

[9] Ê-ma, Sự HIện Diện Thật, 38.

[10] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 38.

[11] Ê-ma, Đức Mẹ Thánh Thể, 59.

[12] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 262

[13] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 262

[14] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 237.

[15] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 132.

[16] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 137.

[17] Ê-ma, Đức Mẹ Thánh Thể, 72.

[18] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 61.

[19] Ê-ma, Đức Mẹ Thánh Thể, 72.

[20] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 102.

[21] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 191.

[22] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 315.

[23] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 319.

[24] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 143.

[25] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 301.

[26] Êima, Sự hiện Diện Thật, 301.

[27] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 138.

[28] Sđd., 179.

[29] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 138.

[30] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 139.

[31] Ê-ma, Sư Hiện Diện Thật, 293.

[32] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 32.

[33] Ê-ma, Sự HIện Diện Thật, 40.

[34] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 152.

[35] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 152.

[36] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật,

[37] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 53.

[38] Sđd.

[39]

[40] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 187.

[41] Sđd.

[42] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 67.

[43] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 288.

[44] Sđd., 68.

[45] Sđd, 288.

[46] Ê-ma, Sự HIện Diện Thật, 286.

[47] Sđd.

[48] Sđd.

[49] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 154.

[50] Kinh Nguyện Thánh Thể II.

[51] Ê-ma, Đức Mẹ Thánh Thể, 166.

[52] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 242.

[53] Ê-ma, Đức Mẹ Thánh Thể, 166.

[54] Sđd., 167.

[55] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 78.

[56] Thánh Gio-an Phao-lô II, Mẹ Đấng Cứu Chuộc, 47.

[57] Ê-ma, Sự Hiện Diện Thật, 78.