SỬ LƯỢC GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM ( 1533 – 2000 )

Non sông gấm vóc đất nước Ðại việt đón nhận Tin Mừng cứu độ Ðức Kitô từ những ngày đầu thế kỷ XVI. “Khâm Ðịnh Sử Việt Thông Giám Cương Mục ” ghi nhận sự kiện: “Năm Nguyên Hoà nguyên niên(1533), tháng ba, đời vua Lê trang Tôn, có người Tây Dương tên I-Nê-Khu lén vào xã Ninh Cường, xã Quần Anh huyện Nam Chân, và xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ, âm thầm truyền bá Da Tô tả đạo (1). Năm 1533 ghi dấu vàng son, và lịch sử truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo Việt nam có thể phân chia làm ba giai đoạn:

  1. Khai sinh trong đau khổ (thế kỷ XVI- XVII và XVIII)
  2. Trưởng thành trong máu đào (thế kỷ XIX)

III. Phát triển trong phục vụ (thế kỷ XX)

  1. KHAI SINH TRONG ÐAU KHỔ (Thế kỷ XVI – XVII – XVIII)

Thời phôi thai của Giáo Hội Việt Nam ghi dấu bước chân rao giảng Tin Mừng tại Hà Tiên của các giáo sĩ dòng Ða Minh đến từ quần đảo Malacca như Luis de Foncesca, Grégroire de la Motte và Gaspar de Santa Cruz vào năm 1550. Tại Ðàng Ngoài, các giáo sĩ Diego Doropesa, Bartolomeo Ruiz, Pedro Ortiz, Francisco de Montila và bốn trợ sĩ đến từ tỉnh dòng Ða Minh Phi luật tân, truyền đạo tại vùng An Quảng (Quảng Yên), năm 1583.

Tại Ðàng Trong, mùa xuân 1615, hai giáo sĩ Francesco Buzomi, Diego Carvalho và ba trợ sĩ Dòng Tên cập bến Cửa Hàn, Quảng Nam để rao truyền Tin Mừng, dưới quyền Chúa Nguyễn cát cứ. Những thế hệ tiếp nối như Francois de Pina, Christopho Bori; nhất là Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ), khuôn mặt nổi bật trong việc sáng tạo chữ “quốc ngữ” dựa theo mẫu tự latinh và thiết lập đoàn “thầy giảng “.

Tháng 2 năm 1626, tại kinh đô Ðàng Ngoài, Chúa Trịnh Tráng tiếp kiến giáo sĩ Julien Baldinotti, nhưng công việc truyền giảngTin Mừng chỉ đạt kết quả khả quan với sự cập bến Cửa Bạng (thanh Hoá ) vào ngày lễ thánh Giuse 19-3-1627, của hai giáo sĩ dòng Tên : Ðắc Lộ và Pierre Marquez. Giáo đoàn Kẻ Chợ mỗi ngày thêm tăng trưởng số giáo hữu nhờ sự cộng tác đắc lực của các “Thày giảng “. Phát động công trình biên soạn giáo lý, sáng tác kinh nguyện, thơ, vãn bằng chữ Nôm do các giáo sĩ khởi xướng như Gaspar d’Amaral, Antoine Barbosa và nhất là Gieronimo Majorica với sự đóng gop quan trọng của các thày giảng nhiệt thành.

Trong chuyến trở về Roma, giáo sĩ Ðắc Lộ đã vận động Bộ Truyền Giáo ấn hành hai tác phẩm chữ quốc ngữ đầu tiên (1651) của chính tác giả:

  • Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà beào đạo Ðức Chúa Blời , sách dày 324 trang, mỗi trang in song ngữ Latin và Việt .
  • Tự điển Việt – Bồ – latinh (Dictionarium Annamiticum – Lusitanum et Latinum ) , sách dày 500 trang, một chứng từ lịch sử vô giá về chữ quốc ngữ thời phôi thai.

Do tường trình của giáo sĩ Ðắc Lộ về hiện trạng cánh đồng truyền giáo đang chín vàng trên đất Việt và đề nghị của Bộ Truyền Giáo, Ðức Thánh Cha Alexandre thứ VII ban hành Tông thư “Super Cathedram ” thiết lập hai giáo phận truyền giáo đầu tiên trên đất Việt ngày 09-09-1659 và đồng thời tuyển chọn hai thừa sai Hội Truyền Giáo Ba Lê làm ” Giám quản tông toà “:

* Giáo phận Ðàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam, bao gồm phần đất Chiêm Thành, Chân Lạp, và đề cử Giám Mục Lambert de la Motte (MEP ) làm Giám quản tông toà đầu tiên.

Giáo phận Ðàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc và bao gồm miền Nam Trung Hoa, đồng thời ủy nhiệm Giám Mục Francois Pallu (MEP ) làm Giám quản tông toà tiên khởi.

Giờ đây trên cánh đồng truyền giáo, công cuộc rao giảng Tin Mừng được tiếp nối với hàng giáo sĩ bản quốc, bốn thày cả tiên khởi được tuyền chức tại chủng viện Juthia, Thái Lan, do việc đặt tay của Giám mục Lambert de la Motte là Giuse Trang (tháng3-1668), Gioan Huệ và Bênêdictô Hiền (6-1668) và Luca Bền (1669). Các giáo sĩ dòng Tên đã tuyển chọn và huấn luyện tổ chức các “Thày giảng ” qua việc hình thành “nhà Ðức Chúa Trời ” để trợ lực trong công tác tông đồ, giảng dạy giáo lý cho tân tòng, thay thế các giáo sĩ khi các ngài bị trục xuất hoặc tình thế khó khăn và quản trị tài sản cộng đoàn.

Năm 1670, Giám mục Lambert de la Motte chính thc viếng thăm giáo phận Ðàng Ngoài và tổ chức công đồng đầu tiên tại Phố Hiến (tháng 2) truyền chức cho 7 thày cả, 48 thày nhận lãnh bốn chức nhỏ. Vào mùa chay, ngài khởi xướng đời sống tu trì cho người phụ nữ bản xứ qua việc thiết lập và phê chuẩn luật “Dòng Mến Thánh Giá “, các chị sống cộng đoàn, đặt của cải làm tài sản chung, dưới quyền của bà bề trên, hằng ngày nguyện ngắm sự khổ nạn của Chúa Kitô trên Thánh giá. Công việc mục vụ của các chị là dạy giáo lý cho người nghèo, viếng thăm người già yếu, bán thuốc viên và nhất là rửa tội cho các em nhỏ hấp hối con nhà nghèo túng trong mọi hang cùng ngõ hẻm của thôn làng.

Tiếp tay đắc lực trong công việc truyền giảng Tin Mừng với các giáo sĩ, thừa sai, thày cả, và thày giảng là “Hội đồng quý chức “, các ông chánh trương, ông trùm, ông biện, họ là những giáo hữu hăng say, niệt thành, can đảm, hi sinh chính mạng sống để bảo toàn, che giấu, bao bọc các thừa sai, các thầy cả trong thời cấm cách bắt đạo. Quý chức là những chứng nhân đức tin, củng cố niềm tin của anh chị em tín hữu trong cảnh tù đầy hay phân sáp giữa những gia đình trong làng các lương dân. Những nét thắm đậm, vàng son viết nên trang sử oai hùng của Giáo Hội trên quê hương đất Việt là hàng giáo sĩ bản quốc, các thày giảng, các chị em dòng Mến Thánh Giá và hàng quý chức.

Vào cuối thế kỷ XVIII, một trong các khuôn mặt nổi bật giữa các vị Thừa sai là Giám mục Bá đa Lộc (Pigneau de Béhaine) bên cạnh hoàng tử Cảnh và Chúa nguyễn phúc Ánh; không nên quá chú ý đếnhoạt động trần thế của nhà thừa sai tràn đầy nhiệt huyết mà thiếu quan tâm đến những đóng góp tích cực về lãnh vực tôn giáo, văn hoá. Giám mục Bá đa lộc là tác giả hai tác phẩm:

Thánh Giáo Yếu Lý bằng chữ Nôm, ấn hành năm1774 bao gồm 230 câu hỏi và trả lời, dày 70 trang, bản khắc in chữ chân phương rất đẹp.

* Dictionarium Anamitico Latinum năm 1772, thủ bản dày 729 trang, tàng trữ tại văn khố Hội Thừa sai Ba Lê, ký hiệu V.1060 (128 rue du Bac – 75007 Paris).

  1. TRƯỞNG THÀNH TRONG MÁU ÐÀO

Năm 1802, Vua Gia Long thống nhất sơn hà, mở ra triều đại nhà Nguyễn, tình hình ổn định, lắng đọng. Tình trạng Giáo Hội Công Giáo Việt nam được ghi nhận như sau:

Giáo phận Ðàng Trong: 1 giám mục, 5 hừa sai, 15 thầy cả và 60.000 tín hữu
Giáo phận Tây Ðàng Ngoài: 1 giám mục, 4 thừa sai, 41 thầy cả và 120.000 giáo dân.

Giáo phận Ðông Ðàng Ngoài: 1 giám mục, 4 thừa sai, 41 thầy cả và 140.000 giáo dân. (2)

Hạt giống Tin Mừng được gieo vào lòng dân Việt, âm thầm lớn lên và đâm hoa kết trái; nhưng biết bao giông tố kinh hoàng, bắt bớ, giam cầm, tra tấn, thảm sát và phân sáp các tín hữu vì niềm tin sắt son vào Ðức Kitô qua những thăng trầm lịch sử các triều đại:

–      30.000 anh hùng Việt nam Tử Ðạo dưới thời Chúa Trịnh Ðàng ngoài; Chúa nguyễn và Nhà Tây Sơn ở Ðàng Trong.

–      40.000 chiến sĩ đức tin đã anh dũng tuyên xưng đức tin dưới ba triều đại: Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Ðức (1848-1883).

–      60.000 tín hữu kiêu hùng chết vì tin vào Chúa Kitô do việc bắt bớ, thảm sát, phân sáp của phong trào Văn Thân (1862-1885).

Trong số 130.000 tiền nhân anh dũng hi sinh mạng sống để bảo vệ đức tin:
–      64 vị được tôn phong “chân phước” do Ðức Thánh Cha lêo XIII ngày 07-05-1900
–      8 vị được nâng lên hàng “chân phước” do Ðức Thánh Cha Piô X ngày 15-04-1906 và thêm 20 Vị vào ngày 11-04-1909.

–      25 Vị được tuyên xưng “chân phước” do Ðức Thánh Cha Piô XII ngày 29-04-1951.

117 Chân phước tử đạo Việt nam gồm có 96 Vị thánh Việt nam, 10 Thánh thuộc hội Thừa sai ba lê và 11 Vị thuộc dòng Ða minh Tây ban Nha. Các ngài bao gồm mọi thành phần dân Chúa:

–      8 Giám mục (6 dòng Ða Minh, 2 Hội Thừa sai Ba Lê)

–      50 linh mục (37 linh mục Việt nam, 5 giáo sĩ dòng Ða Minh Tây ban Nha và 8 thừa sai Pháp)

–      16 thầy giảng và 1 chủng sinh (Tôma Trần văn Thiện)

–      42 giáo dân (1 phụ nữ: Thánh Annê Lê thị Thành).

Theo giòng thời gian, giữa 117 anh hùng đức tin có:

–      2 Vị tử đạo thời Chúa Trịnh Doanh (1740 -1767)

–      2 Vị đổ máu đào dưới đời Chúa Trịnh Sâm (1767 -1782)

–      2 Vị đời Vua Cảnh Thịnh (1782 – 1802)

–      57 Vị tử đạo đời Vua Minh Mạng (1820 – 1841)

–      3 Vị đời Vua Thiệu Trị (1841 – 1847)

–      51 Vị dưới đời Vua Tự Ðức (1847 – 1883)

Bên cạnh những vị thừa sai và thầy cả can trường, sống chết với đoàn chiên để bảo vệ đức tin, vẫn còn những thừa sai âm thầm thu thập những tài liệu, nghiên cứu, như giám mục Jean Louis Taberd (Từ) (MEP) với sự cộng tác tích cực của chủng sinh Philipphê Phan văn Minh và Gioan Ðoàn trinh Hoan (hai vị Thánh linh mục tử đạo tương lai) tại chủng viện Pénang. Các vị lưu lại hai cuốn tự điển được đánh giá cao về phương diện ngữ học Việt Nam:

* Nam Việt Dương hiệp Tự Ðiển (Dictionarium Anamitico – latinum), sách dày 820 trang, khổ lớn 21 cm x 27 cm.

* Dictionarium latino – Anamiticum, dày 708 trang với 85 trang phụ lục học tiếng Latin; 135 trang đàm thoại 4 thứ tiếng Việt – Latin – Pháp – Anh ; “Inê Tử Ðạo văn ” dài 563 câu và phụ thêm “An Nam Ðại Quốc hoạ đồ ” (75 x 50 cm), sách ấn hành tại Bengale (Ấn Ðộ) vào năm 1838.

Năm 1868, dưới triều Vua Tự Ðức, một chiếu chỉ được ban hành, triều đình phân loại hai hạng con dân trong nước :”lương dân ” bao gồm những con dân hiền lành, lương thiện, an phận thủ thường; và “dữu dân ” là những người theo đạo “Da Tô “, đạo Tây phương, những người xấu như chính từ ngữ “dữu ” diễn tả, dữu là tên loài cỏ dại, mọc chung và phá hoại ruộng lúa? Phải chăng triều đình muốn áp dụng hình ảnh dụ ngôn “giống cỏ dại ” trong Tin Mừng Matthêu 13,24-30? Vì thế, những đóng góp xây dựng bảo vệ đất nước của sĩ phu Công giáo như Nguyễn trường Tộ không được triều đình nhà Nguyễn chấp nhận.

Máu đào tử đạo làm phát sinh hạt giống đức tin, vào cuối thế kỷ XIX, tình hình Giáo Hội tăng trưởng không ngừng, trong cánh đồng truyền giáo có thêm sự góp mặt của các dòng tu đến từ Âu Châu: Dòng Kín chiêm niệm, Dòng Sư huynh Lasan, Dòng Chúa Quan Phòng, Dòng Thánh Phaolô thành Chartres tiếp tay trong các hoạt động văn hoá, xã hội. Thống kê vào năm 1889 của 8 giáo phận như sau:
1-   Giáo phận Tây Ðàng Trong: Giám mục Jean Dépierre Ðễ (MEP), 52 thừa sai, 42 thầy cả, 189 nhà thờ và nhà nuyện, 2 chủng viện với 214 chủng sinh, 1 nhà Dòng Kín, 12 cơ sở xã hội Dòng Phaolô thành Chartres với 130 nữ tu, 4 nhà Dòng Mến Thánh Giá với 295 dì phước, 110 trường học dạy 7.236 học sinh, 5 viện mồ côi chăm sóc 620 trẻ em, 5 bệnh viện thường xuyên điều trị 4000 bệnh nhân và 56.000 giáo hữu.

2-  Giáo phận Ðông Ðàng Trong: Giám mục Désiré Van Camelbeke (MEP), 25 thừa sai, 14 thầy cả, 40 nhà thờ, 1 chủng viện với 54 chủng sinh, 12 nhà dòng nữ với 440 nữ tu, 2 viện mồ côi chăm sóc 894 em, 10 trường học dạy 472 học sinh và 17.773 giáo dân.

3-  Giáo phận bắc Ðàng Trong: Giám mục Louis Marie Caspar Lộc (MEP) 20 thừa sai, 26 thầy cả , 58 nhà thờ và nhà nguyện, 2 chủng viện với 51 chủng sinh, 7 tu viện với 420 chị em Dòng Mến Thánh Giá, 34 trường học dạy 920 học sinh, 2 viện mồ côi chăm sóc 200 em và 19.932 giáo dân.

4-  Giáo phận Cao Miên: 1 Giám mục, 26 thừa sai, 3 thầy cả, 24 thầy giảng, 58 nhà thờ và nhà nguyện, 1 chủng viện với vơi 96 chủng sinh, 3 tu viện Dòng Chúa Quan Phòng với 42 nữ tu, 3 tu viện dòng Mến thánh Giá, 4 viện mồ côi 2 bệnh viện, 5 trường học dạy 1.947 học sinh và 17.500 bổn đạo.

5-  Giáo phận Tây Ðàng Ngoài: Giám mục Pierre Jean Marie Gendrau Ðông (MEP), 43 thừa sai, 97 thầy ca, 3 củng viện với 355 chủng sinh, 425 nhà thờ và nhà nguyện và 200.000 tín hữu.

6-  Giáo phận Ðông Ðàng Ngoài: giám mục José Terres Hiến (OP), 8 giáo sĩ Ða minh Tây ban Nha và 2 Việt nam, 32 thầy cả, 82 thầy giảng, 40 đại chủng sinh, 281 tiểu chủng sinh, 3 tu viện với 58 nữ tu Ða Minh, 6 nữ tu dòng Phaolô thành Chartres, 1 bệnh viện, 4 viện mồ côi, 21 hạt với 208 họ đạo và 41.120 tín hữu.

7-  Giáo phận Nam Ðàng Ngoài: Giám mục Louis Pineau Trị (MEP), 22 thừa sai, 59 thầy cả, 2 chủng viện với 160 chủng sinh, 58 trường học dạy thường xuyên 2.410 học tròvà 72.000 tín hữu.

8-  Giáo phận Trung Ðàng Ngoài: Giám mục Mazime Fernandez Ðịnh (OP), 12 giáo sĩ Ða minh Tây ban Nha và 4 Việt Nam, 66 thầy cả, 52 đại chủng sinh, 66 tiểu chủng sinh, 19 tu viện nữ Ða Minh, 3 bệnh viện, 710 họ đạo và 189.110 giáo dân (3)

Những thập niên cuối thế kỷ XIX, Giáo Hội quan tâm thiết lập các nhà in để phổ biến sách kinh, giáo lý, tu đức, phụng vụ, Kinh Thánh, các lọai tự điển, sách giáo khoa như nhà in Tân Ðịnh, Kẻ Sở, Ninh Phú đường, Trung hòa, Làng Sông … Về mặt văn hoá có những tác phẩm lịch sử, tự điển, phiên dịch của Trương vĩnh Ký và Huỳnh tịnh Của; về phần thiêng liêng tu đức không thể không đề cập đến các sách của cha Phaolô Qui, cha Hồ ngọc Cẩn. Tuần báo “Nam Kỳ địa phận ” phát hành liên tục từ năm 1908 – 1945 (4)

III. PHÁT TRIỂN TRONG PHỤC VỤ (THẾ KỶ XX)

Cánh đồng truyền giáo Việt nam thắm đậm máu đào tử đạo để tăng trưởng không ngừng. Trong phiên họp ngày 30-06-1924 dưới sự chủ toạ của Giám mục Henri Lecroat (SJ) thanh tra Toà Thánh, các giám mục miền Ðông Dương đã đề nghị Bộ Truyền Giáo đổi tên các giáo phận, từ đây các giáo phận sẽ lấy tên thành phố có Toà Giám mục thay vì sử dụng danh xưng theo hành chánh dân sự. Toà thánh thiết lập Tòa khâm Sứ tại Ðông Dương, đặt tại Phủ Cam, Huế, vào năm 1925. Vào đúng 400 năm (1533- 1933) sau ngày Tin Mừng được rao giảng trên đất Việt, Ðức Thánh Cha Pio XI đã tấn phong Giám mục tiên khởi Việt Nam: Gioan Baotixita Nguyễn bá Tòng ngày 11-06-1933 tại Ðền thờ Thánh Phêrô.

Ðức Khâm sứ Colomban Dreyer triệu tập công đồng Ðông Dương tại Hà Nội từ 16-11 đến 06-12-1934 với sự tham dự của 19 giám mục, 5 bề trên thượng cấp các dòng Ða Minh, Phan Sinh, Xitô, Chúa Cứu Thế và Hội linh mục Xuân Bích cùng với 21 linh mục cố vấn và chuyên viên, chia thành 5 tiểu ban nhóm họp, thảo luận và đúc kết thành quả “Quy chế mục vụ công đồng Ðông Dương ” gồm 5 cuốn với 426 khoản nhằm mục đích:

–      Thiết lập tiệm tiến hàng giáo phẩm Việt nam.

–      Ðào tạo và thăng tiến hàng giáo sĩ Việt nam nhằm đáp ứng nhu cầu mục vụ thời đại.

–      Cổ võ tinh thần sống đạo và truyền đạo của giáo dân qua các phong trào công giáo tiến hành.

Thành qủa đường hướng mục vụ của công đồng ghi dấu bước tiến quan trọng, nhiều giáo phận mới được chia và thành lập: Giáo phận Phát Diệm, Thanh Hoá (1932), Thái Bình (1936), Vĩnh Long (1938), Lạng Sơn (1939), Cần Thơ (1955), song song với việc tuyển chọn và liên tiếp tấn phong các giám mục Việt Nam: Gm hồ ngọc Cẩn (1935), Gm Ngô đình Thục (1938), Gm Phan đình Phùng (1940), Gm Lê hữu Từ (1945), các Gm Trịnh như Khuê, Phạm ngọc Chi, Trương cao Ðại (OP), Hoàng văn Ðoàn (OP) (1950), Gm Trần hữu Ðức (1951), Gm Nguyễn văn Bình và Nguyễn văn Hiền (1955).

Theo nhịp thăng trầm của đất nước, hiệp định Genève ngày 20-07-1954, phân chia hai miền nam bắc; số đông giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và hơn 650.000 giáo hữu di cư vào miền nam; Giáo Hội miền Bắc còn lại trong 10 giáo phận có: 7 giám mục,374 linh mụ và số ít tu sĩ phục vụ 750.000 tín hữu ( 5 ).

Theo thống kê Bộ Truyền Giáo, Giáo Hội tại Miền nam năm 1957 có: 1.100.000 giáo dân, 67.854 tân tòng, 254 đại chủng sinh, 1.672 thầy giảng và 1.264 linh mục. Giáo Hội phát triển không ngừng để phục vụ tha nhân qua các môi trường tôn giáo, văn hoá, xã hội: Viện đại học công giáo Ðàlạt khánh thành năm 1958; Giáo Hoàng Học Viện Pio X khai giảng năm 1958 do các giáo sĩ Dòng Tên đảm trách.

Ðể kỷ niệm 300 năm thành lập hai giáo phận đầu tiên (1659 – 1959 ) và ghi dấu sự phát triển của giáo Hội Việt nam: Ðại Hội Thánh Mẫu toàn quốc được tổ chức tại Saigon ngày 17 đến 19-02-1959 dưới sự chủ toạ của Ðức Hồng y Gregogio Agagianian, quyền Tổng trưởng Bộ Truyền Giáo.

Và ngày 24 -11-1960 qua Tông thư “Venerabilium Nostrrorum “Ðức Thánh Cha Gioan XXIII thiết lập hàng Giáo Phẩm Công GiáoViệt Nam” với ba Giáo tỉnh: Hà Nội, Huế, và Sàigòn. Tông Thư được công bố ngày Lễ kính Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, ngày 08-02-1960:

–      Giáo tỉnh Hà Nội bao gồm các Giáo phận Lạng Sơn, Hai Phòng, bắc Ninh, Hưng Hoá, Thái Bình, Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hoá và Vinh.
–      Giáo tỉnh Huế gồm các giáo phận: Quy Nhơn, Nha Trang và Komtum.
–      Giáo Tỉnh Saigon quy tụ các giáo phận Vĩnh Long, Cần Thơ, và ba giáo phận mới được thành lập: Ðàlạt, Mỹ Tho và Long Xuyên.

Hạt giống Tin Mừng đâm sâu trong lòng đất mẹ, phát sinh hoa trái đời sống đức tin kiên cường của người tín hữu, thêm nhiều Giáo phận mới liên tục được thiết lập : Giáo phận Ðà nẵng (1963), Phú Cường và Xuân Lộc (1966), Ban Mê Thuộc (1967) và sau cùng là Phan Thiết (1975). Trong hoài bão và ước vọng mang Tin Mừng Ðức kitô cho các dân tộc lân bang như Cao miên, Ai lao, và Thái lan, Hội Thừa sai việt nam được thành hình năm 1972.

Biến cố tháng 4 năm 1975, một số đồng bào di tản, vượt biển ra nước ngoài; đất nước hoàn toàn thống nhất, sức sống của Mẹ Giáo Hội Việt Nam kiên cường, mãnh liệt dưới sự hướng dẫn tinh thần của Hội Ðồg Giám Mục Việt nam. Trong phiên họp đầu tiên tại Hà Nội, ngày 01-05-1980, các Giám mục Việt Nam minh định và cương quyết theo đường hướng mục vụ :”Giáo Hội Việt Nam sống Phúc âm và hoà mình giữa lòng dân tộc “.

Lần đầu tiên tong dòng lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ðức Tổng Giám Mục Giuse Maria Trịnh như Khuê, Tổng giám Mục Hà Nội, đuợc thăng lên hàng Hồng Y tiên khởi do Ðức Thánh Cha Phaolô VI vào ngày 30-06-1978.

Ngày vinh quang, khải hoàn, ngày 19-06-1988, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 Thánh Tử đạo Việt nam tại Công trường Thánh Phêrô với sự tham dự của hàng ngàn giáo hữu Việt nam trong niềm tri ân các tiền nhân anh dũng, bất khuất, trung kiên đổ máu đào vì niềm tin son sắt vào Ðức Kitô và Giáo Hội.

Như lời Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong sứ điệp gửi cho Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam dịp kỷ niệm 25 năm thành lập (1960-1985) :” Nếu hạt giống hôm qua gieo vào lòng lịch sử đã có một quá khứ oai hùng, cũng sẽ bảo đảm muôn phần phong phú cho tương lai mùa hoa nở trong vườn hoa Giáo Hội Việt Nam của quý chư huynh “.

Theo bản thống kê năm 1995, Mẹ Giáo Hội Việt nam hôm nay hiện diện trong 25 giáo phận, với 4 triệu 500.000 tín hữu,trên tổng số 73 ttiệu dân, chiếm 6,5 % dân số toàn quốc; được chăm sóc bởi 32 Giám Mục, 1866 linh mục, 850 đại chủng sinh trong 6 Ðại chủng viện : Thánh Giuse (Thành Phố Hồ chí Minh), Cần Thơ, Sao Biển Nha Trang, Xuân Bích Huế, Vinh Thanh, và Thánh Giuse Hà Nội. Hiện diện giữa lòng dân Chúa còn có các cộng đoàn tu trì, sống đời chiêm niệm hay hoạt động tông đồ, mỗi ngày càng tăng trưởng về phẩm cũng như lượng.

Số tu sĩ các dòng nam là 1.523 trên toàn nước; được ghi nhận vào năm 1993 : Dòng Biển Ðức (53 đan sĩ), Dòng Chúa Cứu Thế (124 tu sĩ), Dòng Tên (40), Dòng ÐaMinh Lyon (9), Tỉnh Dòng Ða Minh Việt Nam (112), Dòng Ðồng Công(140), Dòng Ðức Mẹ người nghèo (10), Dòng Lasan (66), Dòng Phan Sinh Việt Nam (109), Dòng Sa-lê-diêng (108), Dòng Thánh Thể (20), Dòng Xitô (230), Dòng Thánh Tâm Huế (40), Dòng Thánh Giuse Nha Trang (50), Dòng Tiểu Ðệ Giêsu (6), Hội linh mục Xuân Bích (13). Và các tu hội đời nam : Tu Hội Nhà Chúa (59), Tu Hội Nhà Chúa truyền giáo (3), Tu hội Nhập Thể tận hiến ( 33), Tu Hội Tôi Tá Thánh Linh (5).

Ơn gọi “Hiến Dâng Phục Vụ ” nữ được thống kê vào năm 1993 như sau : Dòng Biển Ðức (21 đan sĩ), Dòng Cát Minh (73), Dòng Clara (18), Dòng Con Ðức Mẹ Mân Côi (245 nữ tu), Dòng Con Ðức Mẹ phù hộ (23) Dòng Ðức Bà (30), Dòng Ðức Bà Truyền Giáo (65), Dòng Nữ Lasan (25), Dòng Phan Sinh Thừa Sai Ðức Mẹ (103), Dòng Thánh Phaolô thành Chartres (300), Dòng Thánh Phaolô Thiện Bản (4)Dòng Nữ tu bác ái Vinh Sơn (250), Dòng Con Ðức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa (60), Dòng Khiết Tâm Ðức Mẹ Nha Trang (110), Dòng Thánh Phao lô Mỹ Tho (134), Dòng Thánh Phaolô Ðà Nẵng (320), Dòng Ðức Mẹ người nghèo (4), Dòng Nữ tỳ Chúa Giêsu linh mục (142), Dòng Nữ tỳ thánh Thể (20), Dòng Cát Minh Bình triệu (73), Dòng Mến Thánh Giá Hưng Hoá (51), Dòng Mến Thánh Giá Thánh Mẫu Hà Nội (139), Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá (52), Dòng Mến Thánh Giá Lưu Phương Phát Diệm (22), Dòng Mến Thánh Giá Vinh Xã Ðoài (167), Dòng Mến Thánh Giá Huế Cố Ðô (263), Dòng Mến Thánh Giá Cái Nhum (131), Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm (287), Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn (292), Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán (318), Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm (303), Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hoá Ðàlạt (263), Dòng Mến Thánh Giá Hà Nội Thủ Ðức (71), Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình Nha Trang (106), Dòng Mến Thánh Giá Quy nhơn (221), Dòng Mến Thánh Giá Cần Thơ Sóc Trăng (77), Dòng Mến Thánh Giá Tân Lập Thái Bình (91), Dòng Mến Thánh Giá Tân An (20), Dòng Mến Thánh Giá Bắc Ninh (65), Dòng Mến Thánh Giá Tân Việt (74), Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết (63), Dòng Mến Thánh Giá Huế, Xuân Lộc (77), Dòng Chúa Quan Phòng (496), Dòng Con Ðức Mẹ đi viếng (96), Dòng Con Ðức Mẹ Lavang Phú Cường (60), Dòng Con Ðức Mẹ Vô Nhiễm (66), Dòng Ðức Mẹ Trinh Vương (192), Dòng Nữ Vương Hoà Bình Ban mê Thuộc (123), Dòng nữ ÐaMinh Lạng Sơn (82), Dòng Nữ ÐaMinh Rosa de Lima Thái Bình-Bắc Ninh- Hải Phòng (297), Dòng Nữ ÐaMinh Thánh Thể (7), Dòng Nữ ÐaMinh Thánh Tâm (140), Dòng Nữ ÐaMinh Tam Hiệp, Bùi Chu nam (151), Dòng tự hiến ÐaMinh Bùi Chu bắc (137), Dòng Chúa Giêsu Hài Ðồng (2),Dòng Tiểu Muội Chúa Giêsu (8), Dòng Dâng Truyền (10), Dòng Ảnh Phép lạ Komtum (63). Và các tu hội đời nữ :Tu Hội bác ái (30), Tu Hội nữ lao động truyền giáo (16), Tu Hội Nhập Thể tận hiến (67), Tu Hội Nô Tỳ Thiên Chúa (68), Tu Hội Nô Tỳ Công Giáo Maria (45), Tu Hội Tôi tá Thánh Tâm (20), Tu Hội Thăm Viếng (100). Tổng số tương đối là 8.822 nữ tu trên toàn quốc ( 6 ).

Sau 20 năm (1975-1995) phát triển tại hải ngoại, Cộng đồng công giáo Việt nam bao gồm khoảng 300.000 tín hữu trên 27 quốc gia định cư ( khoảng 15 % người Việt nam tại hải ngoại ) được phục vụ bởi 633 linh mục, 30 tu sĩ, 31 phó tế vĩnh viễn, 96 Ðại chủng sinh, và 241 nữ tu ( 7 ).

Năm 1997, năm thật đặc biệt với giáo xứ Việt Nam tại Paris mừng kỷ niệm 50 năm (1947-1997) thành lập: đây là cộng đoàn tín hữu Việt Nam tại hải ngoại kỳ cựu nhất. Thánh lễ tạ ơn do Ðức tổng Giám Mục Mario Tagliaferri, Sứ Thần toà thánh tại Pháp chủ tế vào ngày 11-05-1997.

Ngày 09-03-1998, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Ðức Cha Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn làm Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận Thành Phố Hồ chí Minh và Ðức Cha Têphanô Nguyễn như Thể làm Tổng giám Mục Tổng Giáo phận Huế.

Hàng trăm ngàn tín hữu hành hương về linh Ðịa La Vangđể tham dự tam Nhật đại lễ kỷ niệm 200 năm đức Mẹ hiện ra tại La Vang (1798-1998) từ 13 đến 15-08-1998 là một biến cố tôn giáo trọng đại, là lễ chung của Giáo Hội Công giáo Việt Nam. Thánh lễ bế mạc do Ðức hồng y đặc sứ Phaolô Phạm đình Tụng chủ tế với sự hiện diện của nhiều Giám Mục và linh mục đồng tế. Toàn thể dân Chúa tạiViệt nam được mời gọi sám hối, đổi mới đời sống , học hỏi noi gương Mẹ Maria và ” Cùng Mẹ LaVang tiến về Năm Thánh Cứu Ðộ 2000 “.

Mùa xuân 1999, Mùa xuân của Giáo Hội Việt Nam trước ngưỡng cửa năm 2000 với việc Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm 5 tân Giám Mục : Ðức tân giám mục Phêrô Trần đình Tứ, Giám mục Phú Cường, tấn phong tại Roma ngày 06-01; Ðức tân giám mục Bùi văn Ðọc, Giám mục Mỹ Tho, tấn phong tại Nhà Thờ Chính Toà Ðàlạt ngày 20-05 ; Ðức tân giám mục Giuse Ngô quang Kiệt, giám mục Lạng Sơn và Ðức tân Giám mục phó Giuse Trần xuân Tiếu, Giáo phận Long Xuyên, tấn phong ngày 29-06 tại Nhà Thờ Chính Toà long Xuyên. Và Ðức tân giám mục Phêrô Nguyễn Soạn, Giám Mục Quy Nhơn, tấn phong ngày 12-08-1999 tại Nhà Thờ Chánh Toà Quy Nhơn.

Hội Ðồng Giám mục Việt Nam trong phiên họp thường niên từ ngày 11 đến 16-10 tại Ðại chủng viện Sao Biển Nha Trang được báo tin vui về Ðại chủng viện Xuân Lộc mở cửa đón nhận chủng sinh các giáo phận Xuân Lộc, Ðàlat, và Phan thiết sau thời gian dài chờ đợi.

Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt nam, một minh chứng hùng hồn đức tin quả cảm, hiên ngang của dân Chúa giữa lòng quê hương và đồng bào, bước theo tấm gương sống đức tin can trường của các thế hệ tiền nhân tử Ðạo. Người tín hữuViệt Nam hiên ngang làm chứng nhân của Tin Mừng, sống niềm tin mãnh liệt vào Ðức kitô trên non sông đất Việt; người giáo dân Việt Nam hải ngoại kiên trì giữ vững và sống đức tin trên các miền đất mới theo bước chân, tinh thần truyền giáo của Thầy giảng Anrê Phú yên tử đạo ngày 27-06-1644, được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên hàng chân phước vào ngày 05-03 tại Quảng Trường Thánh Phêrô dịp Ðại Năm Thánh 2000.

Ðồng hành với chân phước Tử đạo Thầy giảng Anrê Phú Yên, mẫu gương người giảng viên giáo lý thế kỷ 17, hiên ngang truyền giảng Tin Mừng và dâng hiến mạng sống giữa tuổi 19 thanh xuân vì tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu cứu nhân độ thế của đức Kitô: “hôm qua, hôm nay và mãi đến muôn đời “. (Dt. 13,8).

CHÚ THÍCH 
(1) Khâm Ðịnh Sử Việt Thơng Giám cương Mục, quyển XXXIII, tờ 6a và 6b .
(2) Eugène L.Louvet, Les Mission catholiques au XIXè siècle, trang 207 .
(3) Adrien launay, Atlas des Missions de la socìt des MEP, Lille 1890 .
(4) Trần anh Dũng, Sơ thảo thư mục Công Giáo Việt nam, Paris 1992
(5) Trần anh Dũng, Lịch sử biên niên G.HC.G.Việt nam, Orlando, 1986
(6) nguyễn ngọc sơn, người Mục tử Cộng đồng, 1994, trang 74-80
(7) Niên lịch Công Giáo Việt nam 1995, Dân Chúa Âu Châu phát hành .