Bình an luôn luôn là ước mong của con người khi sống ở trần gian. “Nó là một khát vọng không thể tan biến trong mỗi trái tim”.[1]
Do đó, nó là một trong những chủ đề thường được người ta chào chúc nhau trong cuộc sống, đặc biệt đối với những người có nguồn gốc Sêmít. Bất cứ khi nào họ gặp nhau, họ thường chào nhau bằng cách thức là “Shalom alechem” (Do-thái) và “Salaameleikum” (Ả-rập). Người Do-thái dùng chữ Shalom, nghĩa là bình an, để chào nhau. Hạn từ này có ý nghĩa rất rộng, chỉ tất cả mọi sự thịnh vượng, và có thể dịch là hạnh phúc.[2]
Trong Kinh Thánh, mỗi khi sai các môn đệ ra đi, Chúa Giê-su luôn căn dặn các ông rằng khi vào bất cứ thành nào, làng nào hay nhà nào, thì trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà [thành, làng] này!” (Xc. Mt 10,11-13; Lc 10,5-6). Thánh Phao-lô cũng thường bắt đầu và kết thúc lá thư của ngài bằng lời chào chúc bình an. Bởi vì thánh nhân ý thức rằng bình an rất cần thiết và quan trọng đối với người Ki-tô hữu, nhất là trong bối cảnh các Ki-tô đang bị thử thách khi sống đức tin!
Shalom đối với các Ki-tô hữu mà họ mong ước cho nhau không chỉ là tình trạng không có xao xuyến, lo lắng và căng thẳng, nhưng còn là trạng thái đầy ơn phúc của Thiên Chúa, được ban cho con người như là ân huệ của Chúa Thánh Thần. Chính vì vậy, sau khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giê-su ban bình an cho các ông, và Người giải thích rằng bình an của Người ban tặng trong Thánh Thần không phải là bình an của thế gian, hay nói cách khác, đó là sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Cho nên dù gặp khó khăn thử thách cũng đừng lo lắng và xao xuyến (Xc. Ga 14,16-27).
Mẹ Giáo hội tiếp tục nài xin ơn bình an này cho con cái mình trong các kinh nguyện và trong Phụng vụ, cách riêng là Phụng vụ Thánh lễ. Trong Thánh lễ, nghi thức chúc bình an dù không phải là nghi thức tâm điểm, nhưng nó mang ý nghĩa quan trọng trong đời sống đức tin của người tín hữu. Nếu ý thức một chút về điều này, người tín hữu sẽ thiết tha và lưu ý hơn trong việc cử hành và chia sẻ bình an với người khác, bình an mà họ đã lãnh nhận từ Chúa Giê-su Ki-tô (Xc. Ga 24,27).
Trong bài này, người viết xin trình bày ba mục, đó là: (1) lịch sử của việc trao chúc bình an, (2) ý nghĩa và (3) cách thực hành việc trao chúc bình an trong Thánh lễ.
1. Lịch Sử
Theo Kinh Thánh, cử chỉ trao ban bình an có ngay từ thời các tín hữu tiên khởi. Điều này đã được thánh Phao-lô khuyên nhủ các tín hữu ở Cô-rin-tô: “Anh em hãy hôn chào nhau một cách hôn thánh thiện” (1Cr 16,20). Nhưng ở đây không cho biết nó diễn ra khi nào. Rất có thể nó diễn ra trong những buổi họp nhau thờ phượng của các tín hữu, vì lá thư này được viết cho cả Cộng đoàn, chứ không phải cho riêng một cá nhân.
Paul Bernier cho rằng,[3] cử chỉ “hôn chúc bình an” có thể được đặt ở phần đầu lễ, với ý nghĩa là cách thức chào chúc, đón nhận những người cùng đến cầu nguyện và thờ phượng; hoặc có thể được đặt sau phần Phụng vụ Lời Chúa và trước phần Dâng lễ để tượng trưng cho tình huynh đệ và sự thống nhất trong Cộng đoàn trước khi dâng Hy lễ (Xc. Mt 5,23-24). Điều này phù hợp với trình bày của Giáo phụ Hy-lạp Gius-ti-nô (thế kỷ II) khi ngài mô tả về Phụng vụ Thánh Thể để giải thích cho hoàng đế La mã Antonius Pius (138-169). Ngài mô tả:
Sau khi đọc xong bút tích của các Tông đồ và Sách các Ngôn sứ, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi người sống theo các giáo huấn tốt và gương lành tốt đẹp này. Sau đó chúng tôi đứng dậy, dâng lời cầu nguyện […]. Sau lời nguyện, chúng tôi hôn và chúc bình an nhau. Tiếp đến, một tín hữu mang bánh và một chén rượu có pha nước đến cho người chủ sự.[4]
Như vậy, việc trao hôn bình an ở thế kỷ II được diễn ra sau lời nguyện chung và trước khi dâng của lễ.[5] Vì vậy, thật ý nghĩa khi thánh Giám mục Cyprianô thành Carthage (thế kỷ III) cho rằng việc làm hòa với nhau để có “bình an của Thiên Chúa” là điều kiện để được Thiên Chúa đón nhận của lễ mà người tín hữu tiến dâng:
Thiên Chúa đã không nhận lễ vật của kẻ bất hòa và truyền cho họ phải rời bàn thờ, quay về làm hòa với anh em trước đã, rồi Người mới có thể vui nhận những lời cầu xin phát xuất từ một tâm hồn hòa thuận. Đối với Thiên Chúa, lễ tế cao cả nhất là niềm bình an, là tình huynh đệ thuận hòa và là một đoàn dân hiệp nhất nhờ mối hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.[6]
Vào đầu thế kỷ IV, việc trao hôn bình an lại được đặt sau Thánh lễ. Cử chỉ này nói lên sự đồng tình đối với tất cả những gì vừa xảy ra, và như một lời khuyến khích nhau sống trọn nghĩa những gì họ vừa cử hành.[7]
Nhưng đến cuối thế kỷ IV, trong Phụng vụ thời thánh Am-brô-si-ô thành Mi-lan, việc trao chúc bình an lại diễn ra trước khi lễ vật được mang lên bàn thờ, giống với thế kỷ II.[8]
Tuy nhiên, trong lá thư gửi cho Decenxiô (khoảng thế kỷ V), Đức Giáo hoàng In-no-cen-tê I giải thích rằng việc trao hôn bình an diễn ra theo sau Kinh nguyện Thánh Thể. Ngài tương phản giữa việc thực hành ở Rô-ma với việc thực hành ở các nơi khác. Ngài giải thích rằng nghi thức này là một sự diễn tả việc ưng thuận của Cộng đoàn đối với mầu nhiệm vừa được cử hành.[9]
Vị trí của việc trao hôn bình an ở thế kỷ VI cũng như vậy. Khi đem của ăn đàng cho bệnh nhân, người ta trao cho họ cái hôn bình an trước khi cho họ rước lễ; do đó, nó đã trở thành nghi thức chuẩn bị cho rước lễ. Dần dần, đến thời Đức Giáo hoàng Grê-gô-ri-ô Cả, cử chỉ trao chúc bình an được áp dụng trong Thánh lễ trước khi Hiệp lễ. Trong thời kỳ này, vì người ta chỉ trao hôn bình an cho những người đã tham dự Thánh lễ và sẽ rước lễ mà thôi, cho nên những người dự tòng không được rước lễ nên cũng không nhận được hôn bình an.[10]
Khoảng thế kỷ X, Kinh xin ơn bình an và hiệp nhất cho Hội thánh được đưa vào Thánh lễ, khi lễ chặng viếng Rô-ma được đưa qua Pháp và Đức. Kinh này mở đầu bằng việc nhắc lại lời hứa của Chúa Giê-su: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”, và nhờ lời hứa ấy mà xin cho Hội thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa. Vì thấy mình tội lỗi và yếu đức tin, nên khi xin ơn này, linh mục thưa với Chúa: “Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội thánh Chúa”.[11]
Vào thời Trung Cổ, khi việc rước lễ trở nên hiếm hoi thì trao hôn bình an trở thành phần bổ túc của việc rước lễ: linh mục hôn bàn thờ, rồi ngài trao hôn bình an cho hàng giáo sĩ những người này trao lại cho giáo dân.[12]
Thời Công đồng Tri-đen-ti-nô, cử chỉ chúc bình an ít khi được thấy, chỉ trừ những ngày lễ trọng.[13] Cụ thể là theo chữ đỏ của Thánh lễ Tridentinô, sau việc bẻ bánh và những lời tung hô Chiên Thiên Chúa, tư tế sẽ đọc lời nguyện: “Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã nói với các Tông đồ rằng, Thầy để lại bình an….”. Rồi nếu có trao dấu hiệu bình an thì ngài sẽ hôn bàn thờ là biểu tượng của chính Chúa Ki-tô như để lãnh nhận bình an từ nơi Người. Tiếp đó, ngài trao bình an cho các thừa tác viên khác theo thứ tự phẩm trật (tức là trao cho phó tế); đến lượt mình, thầy phó tế sẽ trao bình an cho thầy phụ phó tế; rồi thầy phụ phó tế lại trao bình an cho các thừa tác viên khác nữa; và cuối cùng, dân chúng làm theo một dây chuyền tương tự. Thực ra, đây là một cung cách trao ban bình an có vẻ hình thức và máy móc.[14] Cũng vì thời gian này ít khi sử dụng việc trao hôn bình an, nên người ta cũng có cảm tưởng như nó bị quên đi.
Đến Công đồng Va-ti-ca-nô II, Ủy ban Phụng vụ đã lấy lại nghi thức chúc bình an và đặt ngay sau Kinh Lạy Cha, như thời của Đức Giáo hoàng Grê-gô-ri-ô Cả. Cụ thể, nghi thức chúc bình an được thực hiện từ lời nguyện sau kinh Lạy Cha (“Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”) cho đến trước lời nguyện thầm của linh mục khi chuẩn bị Hiệp lễ.
Nghi thức chúc bình an này gồm có:
– Lời nguyện xin ơn bình an, đây là lời nguyện công khai duy nhất dâng lên Đức Ki-tô trong phần thường lễ. Lời nguyện này được gọi là Kinh Embolismos (thêm vào, đặt vào giữa) và chỉ có bên Tây phương.
– Tiếp đó, chủ tế và các tín hữu chúc bình an cho nhau. Chủ tế chúc bình an cho các tín hữu bằng công thức: “Bình an của Chúa…” (Pax Domini…) và Cộng đoàn đáp lại. Vì công thức này thực ra chưa phải là một lời mời trao đổi, nên liền sau đó, phó tế hay vị chủ tế còn thêm: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”.[15] Lúc này các tín hữu diễn tả dấu bình an của tình huynh đệ cho những người gần mình.[16]
– Cuối cùng là Kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, trong đó, kết thúc bằng lời cầu: “xin ban bình an cho chúng con” (dona nobis pacem).
Như vậy, việc chúc bình an đã có từ rất sớm trong Cộng đoàn các tín hữu khi họ tụ họp để thực hành Lễ Bẻ Bánh, nhưng nó được đặt ở những vị trí khác nhau tùy theo mỗi thời đại và mỗi khu vực. Do đó, ý nghĩa của nó cũng được giải thích khác nhau.
Lm. Giu-se Nguyễn Văn Đoán,SSS
[1] Đức Bê-nê-đíc-tô XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, số 49.
[2] Xc. Trần Đình Tứ, Phụng vụ Thánh lễ, ĐCV. Thánh Giu-se Sàigòn, 1997, tr. 171.
[3] Xc. Paul Bernier, bản Việt ngữ Thánh lễ gõ nhịp cho cuộc sống, Trần Đình Long dịch, [không rõ Nxb.], tái bản 2011, tr. 138.
[4] Justinô, Hộ giáo (Apologia), I: 65 (Xc. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1345).
[5] Việc trao hôn bình an chỉ dành riêng cho những tín hữu, còn những người dự tòng được giải tán. (Xc. Erasto J. Fernandez, The Eucharist step by step, bản Việt ngữ Thánh lễ từng bước đi vào cuộc sống, Trần Đình Long dịch, [không rõ Nxb.] – 2012, tr. 155).
[6] Trần Minh Hiến, Phụ trương Giáo phụ học, tập II, ĐCV. Huế 1998, tr. 181
[7] Xc. Paul Bernier,Sđd., tr. 138.
[8] Xc. Dennis C. Smolarski, Q&A: The Mass, Liturgy Training Publications – 2002, tr. 64-65.
[9] Xc. Anscar J. Chupungco, Handbook for Liturgical Studies, tập III, Claretian Publications – 1997, tr. 119.
[10] Xc. Phạm Đình Ái, Cử hành Hy lễ Tạ ơn, HV Thánh Thể, 2012, tr. 228.
[11] Xc. Trần Đình Tứ, Sđd., tr. 171.
[12] Xc. Vinh sơn Nguyễn Thế Thủ, Phụng vụ Thánh Thể, ĐCV. thánh Giu-se Sàigòn – 2001, tr. 136.
[13] Xc. Paul Bernier, Sđd., tr. 139.
[14] Xc. Sđd.
[15] Xc. Thêôphilô, Hướng dẫn cử hành Thánh lễ, Tôn Giáo – 2012, tr. 157.
[16] Trần Ngọc Quỳnh, Cử Hành Mầu Nhiệm Tạ ơn, Đại Kết – 1996, tr. 191