365 ngày với cha thánh Eymard – tháng 2

Ngày 1/2

“Quà tặng bản thân (gift of self) đòi buộc mỗi người hãy để cho Chúa Thánh Thần làm việc nơi mình, bao nhiêu có thể và trong hiện thực, chứ không đơn giản chỉ mang nghĩa ẩn dụ là sự hóa mình ra không của Chúa Giê-su. Sự kết hiệp này có được là nhờ ân sủng, lời cầu nguyện và trên hết chính là nhờ Thánh Thể” [Suy niệm về sự nhận thức sâu sắc của cha Eymard].

Tất cả chúng ta biết rằng việc cử hành Thánh Thể theo thói quen sẽ chẳng đem lại hiệu quả biến đổi nào trong cuộc đời chúng ta cả. Cốt lõi của Thánh Thể chính là hy tế của Chúa Giê-su (như đã được diễn tả trong khung cảnh của vườn Giệt-si-ma-ni ‘Lạy Cha! Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha’). Trong mỗi Thánh Lễ, chúng ta liên kết của lễ nhỏ bé của chính chúng ta với của lễ đầy yêu thương của Chúa Giê-su và dâng lên Chúa Cha. Để của lễ của chúng ta mang lại hiệu quả, thì của lễ ấy cần một nơi (nơi mà Cái Tôi vẫn chiếm ưu thế) vốn được chọn lựa và của lễ ấy được đặt trên bàn thờ cùng với bánh và rượu. Việc dâng bánh rượu (mà không kèm theo của lễ của chính chúng ta) sẽ chỉ là dâng những của lễ mang tính biểu tượng, ẩn dụ và trống rỗng.

Việc kiểm nghiệm xem hy lễ của chúng ta là thực hay chỉ là ẩn dụ sẽ được thể hiện ra khi chúng ta tìm cách sống Thánh Lễ. Nếu hy tế của chúng ta phát xuất từ chính con tim, thì chúng ta sẽ ý thức được của lễ ấy trong suốt ngày sống. Chúng ta sẽ khẳng định lại quyết định chết đi cho Cái Tôi của mình mỗi khi có cơ hội. Vì thế, những hiệu quả của một Thánh Lễ hữu hiệu sẽ kéo dài suốt cả ngày. Thực tế, lời cầu xin của chúng ta trong suốt Thánh Lễ chính xác là: Chúa Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta những cơ hội trong suốt cả ngày, để chúng ta có thể sống hy tế của mình. Vì thế, rõ ràng là nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của Quà Tặng Bản Thân này, chúng ta sẽ không chứng minh được quyết định của chúng ta được đề ra trong suốt Thánh Lễ.

Cũng như trong trường hợp của chính Chúa Giê-su, đồi Can-vê phải diễn ra sau Phòng Tiệc Ly/ vườn Giệt-si-ma-ni. Đối với Chúa Giê-su, đồi Can-vê đơn giản chỉ là sự hiện tại hóa cam kết của Ngài với Chúa Cha được thể hiện rõ ràng trong vườn Giệt-si-ma-ni. Chúng ta cũng để ý rằng khi hiến dâng chính mình qua lời cầu nguyện, Chúa Giê-su đã không bao giờ phản bội lại cam kết của Ngài trong suốt Cuộc Tử Nạn và sự chết; Ngài vẫn luôn trung thành với hy tế của Ngài cho đến cùng, và để lại cho chúng ta một mẫu gương về việc cử hành Thánh Thể trong đời sống hàng ngày phải như thế nào, đó là bằng lòng trung thành và tình yêu.

Cha Eymard đã mau mắn nhắc nhở chúng ta rằng Quà Tặng Bản Thân diễn ra thường xuyên ấy chính xác là hiệu quả ân sủng của Thiên Chúa; cha cũng nhắc nhở chúng ta cần khẳng định lại của lễ của mình trong bối cảnh của việc cầu nguyện ngoài Thánh Lễ. Nó khởi đi từ Thánh Lễ, được đào sâu trong suốt việc cầu nguyện trước Thánh Thể của chúng ta, và cuối cùng được thực hiện một cách hăng hái qua những cam kết hàng ngày của chúng ta.

Ngày 2/2

“Con người phải sẵn sàng vâng theo sự thúc đẩy của Thần Khí, hoàn toàn giữ vững ý chí tự do của mình, đến nỗi người ta có thể nói rằng Đức Ki-tô đang “hoạt động” nơi người ấy, làm gia tăng việc Nhập Thể. Người sống theo Quà Tặng Bản Thân này sẽ là một người tôn thờ đích thực” [ ]

Cha Eymard nhắc nhở chúng ta rằng Quà Tặng Bản Thân không phải là một điều gì đó mà chúng ta có thể thực hiện một cách mau lẹ, khi chúng ta cảm thấy thích nó hay khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp. Quà Tặng ấy cần phải trở thành một thái độ vĩnh viễn của tâm trí và tâm hồn. Đức Giê-su sẽ sở hữu hoàn toàn con người nội tại của chúng ta, và Ngài sẽ từng bước đẩy lui Cái Tôi đang thống trị nơi chúng ta. Nói cách khác, không thể có sự nửa vời trong vấn đề này. Đức Giê-su nhắc nhở những ai muốn theo Ngài nhưng lại muốn làm theo ý mình rằng “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9,62).

Cha Eymard đã đề cập đến sự dâng hiến hoàn toàn bản thân qua lời khấn Bản vị mà cha được linh hứng để cam kết vào cuối cuộc Đại Tĩnh Tâm ở Rô-ma. Cha tự nhủ rằng: “Tôi ao ước làm gì đó cho Đức Giê-su như chính Đức Giê-su đã làm cho Chúa Cha”, điều đó có nghĩa là cũng như Đức Giê-su đã hoàn toàn phó thác đời mình vào tay Chúa Cha trong công trình cứu chuộc và luôn luôn vâng theo lời Người thế nào, thì cha Eymard cũng ao ước phó thác đời mình vào tay Đức Giê-su để làm những gì Ngài muốn và để loan báo vương quốc tình yêu của Ngài (qua Thánh Thể) thế ấy. Câu hỏi mà cha luôn luôn đặt ra với Đức Giê-su là: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” một cụm từ vay mượn từ thánh Phao-lô, người đầu tiên nói điều đó khi ngài bị té ngã trên đường về Đa-mát. Vì thế, chính cha Eymard đã nhận ra cuộc đời mình là trở nên một sự nối dài của biến cố Nhập Thể và cha cũng dự định điều này cho tất cả các học trò của cha.

Bất cứ ai đã từng thử việc thực hành tâm linh này thì đều hiểu được là nó khó khăn biết chừng nào. Thêm nữa, điều này ngụ ý rằng chúng ta phải hoàn toàn vị tha, từ bỏ Cái Tôi trong chúng ta. Nói thì dễ, nhưng làm mới khó và phải mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, khi nhận ra rằng chúng ta không chiến đấu bằng chính khả năng của mình trong công việc khó khăn này, nhưng chính Thần Khí sẽ dẫn chúng ta đi, đó là chương trình của Ngài chứ không phải của riêng chúng ta, chúng ta có thể lao vào công việc đó với niềm tin và lòng cậy trông, luôn luôn dựa vào sức mạnh của Chúa. Thậm chí khi chúng ta thấy mình thăng tiến, thì điều này đảm bảo rằng danh dự luôn luôn (hầu như một cách tự động) được dành cho Chúa chứ không phải cho loài người. Vì thế, Hội dòng Thánh Thể sẽ ngày một lớn mạnh và hoạt động một cách hiệu quả vì vương quốc tình yêu của Thiên Chúa.

Ý tưởng ẩn bên dưới lời khẳng định trên chứng thực một sự tiếp nhận hoàn toàn bởi Đức Giê-su để con người tự động đáp trả lại bằng cách dâng hiến trong mỗi và mọi trường hợp. Thực tế không có thử thách ghê gớm nào phải đối diện, vì quyết định được đưa ra một cách có ý thức, tự do, đầy yêu thương và bằng cả tấm lòng. Chính khi con tim và khối óc bị tách lìa, người ta sẽ trải nghiệm một cuộc chiến, điều này đối chọi với điều kia. Nhưng khi con người tự do chọn lựa tình cảnh mà trong đó “tôi sống nhưng không phải tôi sống mà chính Đức Ki-tô sống trong tôi” thì việc từ bỏ bản thân sẽ trọn vẹn và hiệu quả.

Ngày 3/2

“Tâm hồn của một người như thế chính là phòng Tiệc Ly đích thực, và cuộc đời của người ấy sẽ trở thành “việc tôn thờ” hoàn hảo dâng lên Chúa Cha.” [ ]

Lời trích dẫn này rút ra từ bài suy niệm trước và ý nghĩa thì thật rõ ràng. Vì khi người ta thuộc trọn về Chúa, bấy giờ người ta sẽ là Phòng Tiệc Ly đích thực, nơi Đức Giê-su ngự vào. Quả vậy, nên biết rằng một người như thế sẽ là Phòng Tiệc Ly đích thực, nơi mà lý tưởng được sống trong sự hiệp thông với Chúa của đời người (Giao Ước) lại chính là một thực tại, bằng cách nào người ấy có thể trở nên người tôn thờ hoàn thiện mà đời sống của họ chính là việc tôn thờ hoàn hảo được dâng lên Chúa Cha? Trước hết, chúng ta nhớ rằng ‘điều Thiên Chúa muốn chính là con người thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Sự Thật’ (Ga 4,23-24). Nói cách khác, Thiên Chúa không bao giờ hài lòng với việc thờ phượng bên ngoài (‘Dân này chỉ thờ Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta’ – Mt 15,8). Trong Cựu Ước, nhiều lần chúng ta thấy Thiên Chúa nhắc nhở dân Ngài qua các ngôn sứ rằng Ngài không hài lòng với lễ vật chiên bò, nhưng vui thích với một tâm hồn tinh tuyền và thống hối! (Tv 50,12-14).

Thiên Chúa tìm kiếm một mối tương quan thổn thức, rung động với loài người, một sợi dây ràng buộc mà qua đó họ nhận biết và đánh giá những ưu phẩm tuyệt vời của Ngài và để Ngài tuôn đổ những ơn lành trên họ. Thánh vịnh 81 nói “Ôi dân Ta mà đã nghe lời, Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ. Thì hết những thù địch ấy, những kẻ hà hiếp chúng xưa nay, Ta tức khắc trở tay quật ngã… còn dân Ta, Ta sẽ nuôi bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng Ta cho hưởng thỏa thuê.” (Tv 81,13-16).  Người ta có thể tưởng tượng ra rằng thật là một tình trạng đau khổ khi mà Thiên Chúa chờ đợi để tuôn đổ những ơn lành của Ngài trên những con người được Ngài tuyển chọn, trong khi họ lại cứng đầu từ chối vì họ bị đắm chìm trong những kế hoạch và dự án của riêng mình. Thêm nữa, sự thật là chỉ có Thiên Chúa mới biết điều gì là tốt nhất cho chúng ta và điều gì sẽ làm cho chúng ta thực sự hạnh phúc và hài lòng!

Đây là mầu nhiệm về “ý chí tự do” của con người, và vì thế khi ai đó thực sự tự do và hết lòng yêu mến trở về với Chúa, để cho Thần Khí làm bất cứ điều gì Ngài muốn, thì việc này sẽ chẳng làm Thiên Chúa hoàn toàn “hạnh phúc” sao? Chúng ta không bao giờ tưởng tượng được rằng khi chúng ta làm cho Thiên Chúa vui sướng bằng việc thêm một điều gì đó vào đời sống nội tại của Ngài, thì Thiên Chúa sẽ vui sướng nơi chính mình; thế nhưng điều đem lại cho Ngài sự thành toàn vĩ đại đó là khi chúng ta đạt được mục tiêu mà Ngài đề ra cho chúng ta: sự sống sung mãn nơi Ngài. “Ta đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Vì thế, để sống một đời sống tôn thờ hoàn hảo, chúng ta không cần “làm” bất cứ điều gì đặc biệt ngoại trừ việc “trở thành” mẫu người mà Thiên Chúa muốn, hãy để Thiên Chúa trở thành Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Chính khi chúng ta vâng theo lời mời gọi của Ngài để hoàn tất những gì Ngài ra lệnh cho chúng ta, thì chính là lúc chúng ta bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, cũng như toàn thể tạo thành tôn vinh Thiên Chúa qua việc trở thành những gì Thiên Chúa muốn nơi mỗi thụ tạo! Sự khác biệt duy nhất, đó là: đối với toàn bộ tạo thành này, không có sự tự do nào trong cách đáp trả của chúng, chúng làm “mọi sự”, nhưng trong trường hợp của chúng ta, chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất khi sự lựa chọn của chúng ta là một sự lựa chọn tự do, đầy yêu thương và đây là mấu chốt của vấn đề. Chúng ta có thể lựa chọn để Thiên Chúa trở thành ông chủ của cuộc đời chúng ta?

Ngày 4/2

(Kỷ niệm sinh nhật lần thứ 200 của cha Eymard)

“Chiều kích nội tâm rất quan trọng; chính phẩm chất của đời sống nội tâm đem lại giá trị cho hoạt động bên ngoài.” [ ]

Lời khẳng định này của cha Eymard hầu như là không cần bất kỳ một sự biện minh nào. Dùng những lời lẽ trong Tin Mừng: “Hãy nghe và hiểu cho rõ: Không phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế; nhưng cái từ miệng xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế… Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. Vì tự lòng phát xuất những ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng gian và vu khống. Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế; còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.” (Mt 15,10-12, 18-20). Vì thế, chính cái bên trong và phát xuất từ cõi lòng thì quan trọng hơn cái được biểu lộ ra bên ngoài. Điều này cũng áp dụng cho sự vâng phục của chúng ta đối với những mệnh lệnh của Thiên Chúa, như Chúa Giê-su phán: “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28-29).

Nếu quy luật này áp dụng một cách tiêu cực, thì nó cũng sẽ áp dụng một cách tích cực. Không phải chỉ những hành động chúng ta biểu lộ ra bên ngoài, nhưng là ý định chúng ta có khi làm sẽ thể hiện ra trước mặt Thiên Chúa. Đấng Toàn Năng cư ngụ trong chúng ta sẽ thấu suốt những gì đang diễn ra trong tâm lòng và đó là điều Ngài quý trọng. Vì thế, những ‘ước muốn ngay lành’ của chúng ta tự bản chất có thể có giá trị, đặc biệt khi chúng ta không thể diễn tả một cách trọn vẹn những gì mà tâm lòng chúng ta muốn vì những giới hạn bẩm sinh của chúng ta. Thiên Chúa tìm kiếm những gì bên trong: “Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu” (Hs 6,6).

Thật không may, cách làm của thế gian thì hoàn toàn trái ngược: ở đây, những cái bên ngoài dường như chỉ là vật chất. Vì thế, nếu một ai đó mặc một chiếc áo ‘Raymond’, thì người ấy được xem là ‘người hoàn hảo’, hoặc khi người ấy đi giầy hiệu Cherry Blossom, thì chắc chắn người ấy chuẩn bị phỏng vấn tìm việc làm! Ngày nay, những anh hùng vĩ đại của giới trẻ là những người có kỹ năng trong lĩnh vực này hoặc lĩnh vực khác; những người nổi tiếng như Hollywood hay Bollywood trở thành những kiểu mẫu cho những thanh niên này, không quan tâm đến cá tính hay những giá trị mà những người mẫu này mang theo bên mình! Không cần phải suy nghĩ, đây là những tiêu chuẩn mà thậm chí sau này được áp dụng vào trong đời sống thiêng liêng, với những hậu quả tai hại. Ngay trong đời sống tu trì ngày nay, bất kỳ cách cư xử nào dường như cũng có thể tha thứ bao lâu cách cư xử ấy không bị bắt quả tang một cách công khai!

Tuy nhiên, những giá trị của Tin Mừng và Nước Trời là những thứ được vun đắp từ bên trong. Những giá trị ấy thay đổi cá tính của con người, làm cho họ trở nên giống Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa. Cũng vậy, trong việc cử hành Thánh Lễ, điều chính yếu không phải là việc hát hay hoặc chia sẻ hấp dẫn, tính đúng đắn của những cử chỉ trong nghi thức hay việc trung thành với bản văn của Thánh Lễ. Điều chính yếu đó là: tình yêu sâu thẳm, cũng như sự tham dự tích cực hướng đến tất cả những gì được cử hành. Và điều này được thể hiện qua cách cư xử phù hợp “giống Đức Ki-tô” trong suốt ngày sống, đặc biệt là khi không ai để ý đến cả.

Ngày 5/2

(Ngày cha Eymard chịu phép rửa tội, 1811)

“Vì các linh mục, tôi sẽ từ bỏ mọi sự” [S 2]

Một trong những ước mơ lớn nhất của cha Eymard chính là được trở thành linh mục dù chỉ một ngày! Điều này cho thấy ước vọng lớn lao và việc coi trọng chức linh mục của cha. Cha nhận thấy nơi vị linh mục hình ảnh của chính Chúa Giê-su. Hơn thế, sau nhiều năm bị thử thách để trở thành linh mục và sống đời linh mục triều trong vòng 5 năm, cha càng hiểu rõ hơn về những lao nhọc cùng những khó khăn của các linh mục. Thường bị cách ly và đặt lên những gánh nặng, các linh mục cố gắng chăm lo cho đoàn chiên đã được trao phó cho mình.

Một trong những cách mà qua đó cha bày tỏ sự kính trọng của mình đối với các linh mục chính là tận tình phục vụ các ngài, không màng tới sự bất tiện xảy đến cho cha. Cha không bao giờ để mình bị chia trí khi cầu nguyện vì bất kỳ lý do nào, chỉ có một ngoại lệ đối với qui luật này và đó chính là nếu có một linh mục nào cần đến thời giờ và sự quan tâm của cha. Đó chính là điều khiến cha phải nói: “Tôi sẽ bỏ mọi sự vì các linh mục”.

Việc đánh giá cao chức linh mục đã khiến cha để ý đến từng linh mục mà cha đã gặp và cha được chuẩn bị để giúp đỡ các ngài mỗi khi các ngài cần. Cụ thể, cha đã quan tâm đến các linh mục già yếu và ốm đau khi nhận ra sự yếu đuối của các ngài, khi các ngài không thể phục vụ như trước, các ngài sẽ ít được đoàn chiên quan tâm. Vì thế, cha ao ước thành lập một cộng đoàn các tu sĩ Thánh Thể để chăm lo cho các linh mục yếu đau và già yếu. Mặc dù việc thành lập này không bao giờ khả thi, nhưng sự kính trọng của cha đối với các linh mục đã khiến cha sẵn sàng để phục vụ các ngài trong khả năng của mình.

Ngày nay, các linh mục Dòng Thánh Thể phục vụ các linh mục gặp trắc trở qua việc lo chỗ ở cho các ngài, hỗ trợ cũng như giúp đỡ trong sứ vụ của các ngài mỗi khi các ngài cần. Hơn thế, luôn có những buổi hòa giải và việc phục vụ tinh thần khác dành cho các ngài. Cách làm này được phổ biến rộng rãi trong đời sống của các tu sĩ Thánh Thể trên khắp thế giới. Nhiều cộng đoàn Thánh Thể đã tìm kiếm chỗ ở cho các linh mục triều, đặc biệt đối với những ai đang gặp rắc rối. Luật sống của chúng ta có một số đặc biệt mà chúng ta đọc thấy:

“Chúng ta tìm cách cùng các ngài (các linh mục) chia sẻ đời sống đức tin, đời sống cầu nguyện và tình thân hữu, cũng như trao đổi với các ngài những dự án, và kinh nghiệm mục vụ của chúng ta. Chúng ta dấn thân phục vụ các ngài bằng cách tiếp đón, bằng việc linh hoạt hóa và các khóa huấn luyện, như cha Eymard đã nêu gương khích lệ chúng ta trong việc này, khi người nói: “Vì các linh mục, tôi có thể bỏ tất cả” (LS # 44).

Ngày 6/2

“Làm đẹp lòng Chúa có nghĩa là yêu mến những gì Ngài yêu thích, muốn những gì Ngài muốn”.

Đóng góp đáng chú ý của cha Eymard cho Giáo Hội và cho thế giới ở thời đại của cha, chính là: cha khẳng định rằng tình yêu chính là thực tại nền tảng của đời sống Ki-tô hữu. Việc đánh giá của cha về vai trò của tình yêu trong đời sống Ki-tô hữu như một tia sáng chiếu xuyên qua bóng đêm dày đặc của một thế giới đầy tội lỗi. Tuy nhiên, đối với cha Eymard, tình yêu không chỉ là một cảm xúc hay một ước muốn chóng qua. Như thánh Gio-an và thánh Phao-lô, hai tác giả Kinh Thánh yêu thích của cha, đã nhấn mạnh rằng: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta; cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1 Ga 3,16) và thêm nữa: “Anh em yêu quý, chúng ta hãy yêu mến nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu mến, thì đã được sinh ra do bởi Thiên Chúa, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu mến, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đã được bày tỏ nơi chúng ta như thế này: Thiên Chúa đã sai người Con của mình, người Con Duy Nhất, đến trong thế gian để nhờ người Con ấy mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu mến chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội vì tội lỗi chúng ta. Anh em yêu quý, nếu Thiên Chúa đã yêu mến chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu mến nhau. Thiên Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người đã được nên hoàn hảo nơi chúng ta” (1 Ga 4,7-13).

Hơn thế, thánh Gio-an nhắc nhở chúng ta rằng không chỉ là lời nói nhưng phải bao gồm những hành động cụ thể, đặc biệt là sự vâng phục của chúng ta đối với Chúa Cha: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu mến nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu mến bằng việc làm, cách chân thật” (1 Ga 3,18-19). Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su nhắc nhở các môn đệ: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ những điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thánh Phê-rô Giu-li-a-nô dường như đã nhận ra sự liên hệ giữa tình yêu và sự vâng phục một cách rõ ràng nơi chính cuộc đời của ngài. Điều ưu tiên hàng đầu trong tâm trí của ngài luôn luôn là sự vâng phục, không quan tâm đến cái giá phải trả như thế nào.

Thậm chí khi cha đoan chắc rằng chính Chúa đã mời gọi cha để lập Dòng Thánh Thể, và thậm chí sau khi rời bỏ Dòng Marist, cha vẫn tìm một phán quyết trong quyết định của Đức Tổng Giám Mục Paris. Cha nhận ra rằng cha sẽ nhận lời của Đức Tổng Giám Mục như là phán quyết sau cùng: Nếu như Đức Giám Mục chấp thuận nguyện vọng thành lập một hội dòng mới của cha Eymard và mời cha vào giáo phận của ngài, thì đó quả thực là dấu chỉ xác thực về thánh ý của Thiên Chúa và cha sẽ đón nhận nó mà không quản ngại những khó khăn. Và đây là điều mà cha thánh đã làm khi Đức Tổng Giám Mục Sibour ở Paris hân hoan chào đón cha với đôi tay rộng mở. Và chúng ta biết Đức Tổng Giám Mục đã không chấp nhận dự án của cha Eymard nên cha đã vui vẻ trở lại với vị trí khiêm hạ giữa các tu sĩ Marist mà không mấy bận tâm đến việc bị sỉ nhục hay cảm giác thất bại.

Vì thế, cha Eymard đã tìm cách làm đẹp lòng Thiên Chúa không chỉ bằng lời nói mà bằng hành động qua sự vâng phục đầy yêu thương đối với thánh ý của Chúa. Bằng cách này, cha đã cho thấy bất cứ việc gì cha làm, không chỉ để mong nhận được lời chúc phúc của Chúa, nhưng còn chứng tỏ khả năng chịu đựng và hiệu quả của việc tông đồ. Dự án này vẫn tiếp tục có giá trị bao lâu cha còn quan tâm đến nó.

Ngày 7/2

“Hãy yêu mến Chúa nhân lành, mọi sự chỉ là không không vậy.” [ ]

Không có gì bí mật về đường lối vĩ đại của cha Eymard trong việc khám phá ra Tình Yêu chính là thực tại nền tảng của đời sống Ki-tô hữu. Nhưng điều quan trọng hơn đó là đối với cha Eymard, Tình Yêu không chỉ là một sự cuốn hút chóng qua, một điều gì đó mà cha đã ao ước nắm bắt được, vì sự phổ biến hay tính đặc trưng. Ước muốn của cha là một sự nhận thức sâu sắc sinh ra từ thử thách cá nhân, một điều gì đó giống như khám phá của thánh Phao-lô rằng: Đức Ki-tô là trung tâm cho việc dấn thân của ngài ‘Ai sẽ giải thoát tôi khỏi tình trạng khốn nạn này… Tạ ơn Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô’ (Rm 7,24-25). Sự giác ngộ của Phao-lô diễn ra trước khi ngài cầu xin sự can thiệp của Thiên Chúa trong tình trạng khốn khổ của ngài, Thiên Chúa đã đưa ra một giải pháp ngang qua sứ mạng của Đức Giê-su. Và đó là điều làm cho ngài biết ơn Chúa Cha và Đức Giê-su.

Hơn nữa, lời khẳng định của cha Eymard, đó là: tình yêu mà chúng ta đề cập đến sẽ là một điều gì đó hiện thực và có ý nghĩa, chứ không đơn thuần là những lời lẽ trống rỗng. Đặc biệt, nó phải duy trì sự thử thách về đức vâng phục trong những tình huống khó khăn, như thánh Gio-an đã chỉ ra. Tình yêu của chúng ta sẽ tuôn đổ vào sự vâng phục, một thái độ quy phục được thực hiện khi đối diện với những khó khăn và đau khổ ghê gớm. Hình ảnh xác thực nhất nảy ra trong đầu chính là hình ảnh của chính Đức Giê-su, Đấng đã cầu nguyện liên lỉ trong Vườn Giệt-si-ma-ni để không phải nhận chén đau khổ. Tuy nhiên, Ngài đã khẳng định rằng mọi sự sẽ theo ý Cha muốn. Sự sẵn sàng hy sinh tất cả này biểu lộ tình yêu sâu thẳm mà Đức Ki-tô dành cho Chúa Cha. Cũng thế, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh em mình có thể là sự thử thách về đức vâng phục cũng như việc phục vụ anh em. Chỉ khi ấy nó mới là một điều gì đó có giá trị.

Đối với cha Eymard, mọi sự ngoài ý muốn của Chúa Cha thực sự sẽ chẳng có giá trị gì. Những công trình vĩ đại, những cảm nghiệm tâm linh sâu sắc hay bất cứ thứ gì cũng không thể sánh với một thái độ quy phục nhỏ bé đối với Chúa Cha vì lòng yêu mến. Hơn nữa, dường như cha chỉ ra rằng nếu có thể, tình yêu ấy sẽ lan rộng ra đến mức độ cảm xúc. Hãy yêu mến Chúa nhân lành, cha khuyên như vậy! Quả vậy, nhìn chung khi những cảm xúc không nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng sẽ chú ý đến những cảm xúc này vì những cảm xúc này đem lại sức mạnh cũng như động lực đối với một quyết định và cuộc sống nói chung. Nếu không có một sự gắn bó thiết tha với Chúa Cha và vương quốc của Người, cuộc đời chúng ta sẽ thiếu đi ngọn lửa mà cha Eymard đã khơi lên trong suốt cuộc đời của cha. Cha không bao giờ có thể phụng sự Chúa một cách hâm hẩm hay nửa vời. Đối với cha, hoặc là tất cả hoặc là không có gì! Và cha đã ao ước nhận ra phẩm chất tương tự nơi tất cả những môn đệ của cha. Một cuộc đời hết lòng tận tụy như thế quả thực là một hình ảnh hiếm thấy, một đặc ân được trao tặng và được một số người thuộc mọi thế hệ đón nhận!

Ao ước và ước mơ của cha Eymard chính là: trong số những con người quảng đại này, hầu hết sẽ là các tu sĩ Thánh Thể, sẽ có những người cảm nếm được tình yêu của Chúa Cha trong và qua Đức Giê-su. Và trong lần kỷ niệm 200 năm ngày sinh của cha, việc tìm cách hiện thực hóa giấc mơ của cha sẽ thực sự chính đáng, có ý nghĩa và thách đố! Phải chăng đó có thể là thái độ biết ơn của chúng ta đối với Đấng Sáng Lập vào dịp kỷ niệm ngày sinh của ngài?!

Ngày 8/2

“Thập giá là thử thách của tình yêu và là vinh quang của tình yêu.” [ ]

Tất cả chúng ta đã quen thuộc với thực tế là: vào giai đoạn mà cha Eymard sống, nhìn chung người ta chú trọng đến những kiểu hành xác và khổ chế. Chống lại nền tảng này, cha Eymard đã khẳng định tình yêu thì quan trọng hơn là sự đau khổ hay việc đền tội. Thế nhưng, cha đủ nhạy bén để nhận ra sự nối kết sâu sắc giữa tình yêu và thập giá. Đối với cha Eymard, chính thập giá mới quan trọng hơn, chứ không phải đau khổ vì đau khổ: đau khổ phải được chấp nhận như một phần nằm trong ý định của Thiên Chúa dành cho chúng ta! Chính tình yêu đã dẫn Đức Giê-su đến việc chấp nhận Thập giá trong cuộc đời Ngài, và tình yêu cũng chính là một sự diễn tả ý định của Thiên Chúa: “Xin đừng theo ý con, một theo ý Cha” Ngài đã liên lỉ cầu nguyện như vậy trong Vườn Giệt-si-ma-ni. Chính thánh Gioan là người nối kết tình yêu với sự vâng phục trong Tin Mừng của ngài “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ những điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Và vâng phục Chúa Cha là nguồn linh hứng duy nhất đối với Đức Giê-su để Ngài chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết.

Khi xem xét kỹ cách cư xử của loài người, chúng ta thấy rằng tình yêu chân thật và sâu đậm sẽ làm cho mọi mức độ đau khổ trở nên dễ dàng. Chẳng phải một người mẹ, bằng tình yêu tự nhiên dành cho đứa con của mình, đã dám chấp nhận thức trắng đêm để ở bên cạnh giường của đứa con đang mắc bệnh, thế nhưng bà vẫn tiếp tục đi làm vào ngày hôm sau như thể bà đã có một giấc ngủ yên bình vào đêm hôm trước? Lòng trung thành, tinh thần yêu nước cũng như những đức tính tương tự cho phép những người trẻ cam chịu đau khổ vì đất nước của mình!

Thế nhưng, cha Eymard cũng có thể nhận ra mặt tích cực của Thập giá, đó chính là vinh quang của tình yêu. Thập giá làm sáng lên vẻ đẹp cũng như vẻ lộng lẫy của tình yêu vì Thập giá làm cho tinh thần của con người vươn đến những đỉnh cao tuyệt diệu, tinh thần ấy thường không thể đạt được động lực thúc đẩy phát xuất từ trách nhiệm, bổn phận và sự sợ hãi. Thực ra, đau khổ trong dự án được đề ra càng lớn, tình yêu càng chiếu tỏa trên đau khổ ấy, nếu và khi tình yêu là nhân tố biến đổi. Một tình yêu như vậy sẽ chữa lành, sẽ đặt sự sống mới vào một con người đang chết dần chết mòn, tình yêu ấy sẽ tiếp thêm sinh lực và đổi mới! Chỉ tình yêu ấy mới có thể đưa tội nhân cứng lòng nhất quay trở về. Đó chính là thứ tình yêu mà Phê-rô nhận ra nơi ánh mắt của Đức Giê-su khi cái nhìn của hai người gặp nhau vào đêm Thương Khó. Tình yêu ấy minh chứng một lời mời gọi thức tỉnh đối với Phê-rô, và là nguồn mạch của hàng loạt những chuyển biến nội tâm sâu sắc trong cuộc đời ông, mà sau này làm cho ông trở thành ‘đá tảng’ khi ông được tuyển chọn. Cũng thế, chính thập giá đã đưa tất cả các vị đại thánh trong lịch sử của Hội Thánh, chẳng hạn như thánh Ca-ta-ri-na thành Si-ê-na cũng như những vị thánh khác, đến gần với Chúa và Thầy của họ.

Sau khi cảm nếm được tình yêu của Thiên Chúa một cách sâu đậm hơn nơi Phòng Tiệc Ly, cha Eymard đã sẵn sàng chấp nhận bất kỳ và hàng loạt những đau khổ của bản thân, không gì là quá nặng nề đối với cha; bấy giờ cha đủ mạnh để xoay xở mọi thứ một cách dễ dàng: đau khổ về thể lý, sự chống đối từ phía người khác, những lời lăng mạ và những đau khổ từ phía những người thân cận, những khó khăn liên quan đến những ơn gọi cũng như việc đào tạo họ một cách xứng hợp, vấn đề tài chính cùng những trở ngại khác, danh sách này hầu như là vô tận. Thế nhưng, giờ đây cha Eymard có thể nhận ra vinh quang của tình yêu nơi những thập giá mà cha gánh vác một cách vui vẻ! Thực tế, cha đã biết ơn vì những khó khăn này và thậm chí có lẽ còn cầu xin thêm nữa.

Ngày 9/2

“Bạn yêu thích sự cô tịch, thì bạn sẽ làm việc tốt.” [ ]

Đây là lời khuyên về đường tâm linh mà cha Eymard đưa ra cho một trong những người con linh hướng của cha. Thế nhưng, đời sống tâm linh của cha luôn luôn là một sự cân nhắc giữa việc dành thời gian (có lẽ là nhiều ngày) để chiêm niệm và cảm nhận tình yêu Thiên Chúa, với việc dành thời gian cho những hoạt động sôi nổi để loan truyền ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa đi khắp mọi nơi. Thậm chí trong đợt tĩnh tâm ở Rô-ma, cha nhớ lại khuynh hướng này từ mức độ cao nhất đến mức thấp nhất như là một trong những sai lầm nổi trội của cha, và cha đã tìm kiếm một phương thuốc để chữa trị nó. Sự nhận thức sâu sắc của cha về đời sống cô tịch được xem như một tia sáng giữa hàng loạt công việc mà cha đảm nhiệm.

Cha Eymard đã ý thức sâu sắc về hai thực tại quan trọng xung quanh cha: Sự lãnh đạm của phần lớn con người trước những chân lý và những ân huệ của Thiên Chúa vốn có thể đem lại bình an và niềm vui vĩnh hằng cho con người; và sự tìm kiếm không ngừng nghỉ, cuồng dại và phù phiếm của bản thân để có được hạnh phúc. Chống lại nền tảng này, cha đã không chỉ nhận ra giải pháp thực sự cho tất cả những vấn đề này là gì, nhưng còn cảm nghiệm được chân lý ấy trong chính cuộc đời cha. Do đó, cha không ngừng bị thiêu đốt bởi một khát vọng to lớn là loan truyền sứ điệp của tình yêu. Và vì quá ít người tin vào phương dược tuyệt vời này cũng như được chuẩn bị để trả giá cho việc hấp thụ phương dược ấy vào trong chính đời sống cá nhân của mình, quá ít người được chuẩn bị để trở thành những tông đồ của tình yêu này. Cha đã từ bỏ con đường của mình để làm tất cả những gì có thể nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt những ngôn sứ và nhân chứng của Thánh Thể.

Tuy nhiên, cha là một con người quá thiêng liêng đến nỗi nhận ra rằng sứ vụ mà cha đang ôm ấp thực sự là công việc của Thiên Chúa, và cha chỉ là một khí cụ được tuyển chọn trong bàn tay Thiên Chúa! Do đó, cách làm sinh ích lợi nhất chính là ‘trông cậy vào Chúa’ và đơn giản là bước theo sự chỉ dẫn của Ngài, tất cả đều nhắm đến sự thinh lặng và cô tịch. Chính cha mong ước sự cô tịch này vì cha bị thuyết phục từ kinh nghiệm rằng đây là cách làm duy nhất đem lại những kết quả có lợi và vững bền. Vì thế, cha bị giằng xé giữa hai khuynh hướng.

Trong tình cảnh này, đối với cha, quả là điều tự nhiên để đánh giá sâu sắc về ước muốn mà người khác có đối với sự cô tịch và thinh lặng, giống như việc trở nên cục đất sét trong tay người thợ gốm và chắc chắn cha sẽ khuyến khích người ta biểu lộ ra sự quan tâm đến cách làm này, dù là ít ỏi đi chăng nữa. Nếu cha Eymard sống vào thời đại của chúng ta, cha sẽ nhấn mạnh nhiều hơn về sự cô tịch này khi nhìn vào hoạt động luôn đổi thay mà toàn thể thế giới này đang lao vào. Dường như con người không nhận thức được giá trị của sự thinh lặng: điện thoại di động, máy nghe nhạc, máy đĩa và mọi thứ khác. Tất cả mọi người tìm cách lấp đầy khoảng trống, nhưng điều đó chỉ càng làm cho chúng ta xa rời với con người thực của mình. Quả thực, phúc cho những ai tự đào luyện mình để nhận ra và yêu thích sự cô tịch và đoan chắc rằng ít ra là có một chút ít thinh lặng trong đời sống của họ mỗi ngày. Để đạt đến mức độ khao khát sự cô tịch, người ta cần phải kiên định và thực hành thường xuyên, quyết tâm và bền chí, nhưng những kết quả này minh chứng cho tất cả những nỗi đau liên quan đến những nỗ lực chúng ta thực hiện.

Ngày 10/2

“Hãy nhớ rằng tình yêu mãnh liệt hơn sự chết.” [ ]

Hầu hết mọi người đều đồng ý với lời khẳng định này ít ra là về mặt lý thuyết, thế nhưng phúc thay người nào cảm nghiệm được chân lý của lời khẳng định này từ kinh nghiệm bản thân. Lý do là tình yêu mà người ta cảm nhận được trên thế gian này chỉ là một thứ tình yêu mong manh của con người, nó không thể vươn đến những đỉnh cao vì cơ bản là tình yêu này có điều kiện. Yêu theo cách này đòi hỏi sức mạnh cảm xúc nội tâm mãnh liệt. Người ta có thể có được tình yêu sâu thẳm này chỉ vì tình yêu ấy được ban tặng cho họ hay vì chính họ đã vượt qua đau khổ ghê gớm. Một người như thế sẽ bị thử thách trong lò luyện đau khổ suốt một thời gian dài, và không phải chỉ một lần, nhưng là hết lần này đến lần nọ. Chỉ khi đó, người ấy mới nhận ra rằng tình yêu quả thực mãnh liệt hơn sự chết!

Những người như thế có thể bị tan nát về thể xác nhưng lại rất mạnh mẽ về tinh thần. Dường như, họ đã đụng chạm đến chiều sâu nơi con người của mình và có thể phân định từ vị trí quan sát tốt về những yếu tố làm nên sự an bình và niềm vui đích thực. Họ đụng chạm đến sự mỏng dòn và tan nát của chính mình và có thể chấp nhận nó. Họ cảm thấy không cần phải chứng tỏ mình với bất kỳ ai, đặc biệt là để chinh phục tình yêu của những người này. Họ ý thức một cách sâu sắc rằng họ có được tình yêu này là phần cốt lõi con người của họ. Đây là trường hợp của cha Eymard sau cuộc tĩnh tâm ở Rô-ma. Quả thực, người ta không thể tước đoạt bất cứ thứ gì khỏi cha; cha đã hoàn toàn không dính líu tới bất cứ thứ gì cũng như thực sự dâng hiến tất cả mọi sự của cha.

Một người như thế không chỉ cảm nghiệm được chiều sâu vô biên của tình yêu, nhưng còn có thể trao ban tình yêu ấy cho người khác, thậm chí là cho những ai không xứng đáng với tình yêu ấy. Và khi tình yêu ấy được chia sẻ với người khác, người đón nhận tình yêu ấy sẽ được biến đổi, và một cách nào đó, người ấy sẽ được trao phó nhiệm vụ chuyển trao tình yêu ấy cho người khác. Vấn đề là ngọn lửa tình yêu của Thiên Chúa được lan truyền và tỏa lan khắp thế giới như thế nào. Vì thế, cái giá phải trả, đó là: khí cụ được tuyển chọn sẽ phải sẵn sàng từ bỏ Cái Tôi ngang qua những thập giá của cuộc đời.

Nhìn chung, những người được tuyển chọn để trở thành những khí cụ ở mức độ này thực sự thì rất ít, và bên cạnh đó họ lại là những người có đặc quyền. Nhưng chỉ thứ tình yêu này mới thực sự biến đổi được người khác, Chúa sẽ đảm bảo rằng trong mọi thời và mọi nơi sẽ luôn luôn tìm được những con người thể hiện thứ tình yêu ấy và làm nên sự khác biệt ở bất cứ nơi đâu họ đến. Trong thời đại chúng ta, không nghi ngờ gì, mẹ Tê-rê-sa là một tấm gương sáng về tình yêu anh dũng thực sự mạnh hơn sự chết. Những con người được tuyển chọn này đóng vai trò nhắc nhở chúng ta từ bỏ con người mình để có thể yêu cho đến cùng! Nhận ra giá trị và tầm quan trọng của những con người này, cha Eymard ao ước ít ra là một vài người con linh hướng của cha (và có thể là những tu sĩ Thánh Thể của cha) sẽ có thể vươn đến đỉnh cao của việc đón nhận ân huệ này từ Chúa Cha.

Ngày 11/2

“Tình yêu tự bản chất là sự chiêm niệm.”

Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta yêu thương vì Người đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4,19). Nói cách khác, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể biết tình yêu chân thật là gì nếu tiên vàn Thiên Chúa không tuôn đổ tình yêu vô điều kiện và vô biên của Ngài xuống trên chúng ta. Chính nhờ tình yêu này mà chúng ta có thể hưởng nếm và đánh giá được những chiều sâu vĩ đại hơn, thậm chí tình yêu ấy còn dẫn chúng ta đến với những người khác, giúp chúng ta biết quảng đại chia sẻ tình yêu ấy với họ vì chính chúng ta đã nhận được tình yêu ấy. Tân Ước cũng nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu đích thực luôn luôn phải là vấn đề của hành động chứ không chỉ là những lời nói. Bởi lẽ, nói lời yêu thương thì rất là dễ. Tuy nhiên, thử thách của tình yêu luôn luôn là lò luyện của đau khổ và là sự hy sinh bản thân mà chúng ta muốn dành cho người khác. Vì thế, hành động sẽ chứng tỏ sự chân thành và chiều sâu của tình yêu nơi chúng ta.

Quả vậy, dù sao đi nữa, tất cả những điều này không mâu thuẫn với điều cha Eymard nói: tình yêu tự bản chất là sự chiêm niệm. Ở đây, cha đang đề cập đến vấn đề là: làm thế nào để một người đạt được thứ tình yêu có sức biến đổi ấy. Không nghi ngờ gì, chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã tuôn đổ tình yêu của Ngài xuống trên chúng ta nhờ Thần Khí của Ngài ngự trong chúng ta (Rm 5,5). Thế nhưng, Thần Khí, mặc dù ở trong chúng ta, sẽ không ép buộc chúng ta phiêu lưu trong tình yêu. Ngài linh hứng cho chúng ta và điều này mở rộng ra là chúng ta ‘chiêm ngắm’ sự hiện diện, bản chất và những hiệu quả của tình yêu tuyệt vời của Chúa Cha đến nỗi chúng ta được linh hứng để cho tình yêu ấy tuôn chảy trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta. Chúng ta càng kín múc những đường lối yêu thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho chúng ta khi chúng ta chiêm niệm trong sự thinh lặng thâm sâu và tĩnh tại, chúng ta lại càng muốn bắt đầu bước đi trong đường lối yêu thương của Ngài. Sự chiêm niệm này giống việc lập trình máy tính là chính con người nội tâm của chúng ta. Khi phần mềm được cài đặt, có thể nói như vậy, tất cả những gì cần, đó là: một cơ hội thích hợp và một sự mô phỏng hợp lý- và sự đáp trả nội tâm sẽ mau chóng xảy ra.

Khi những người khác nhận ra ‘hoa trái’ này phát sinh mà không cần nhiều nỗ lực, thì điều đó có thể xem như là kết quả nỗ lực của con người. Thực ra, không có gì ngoài hoa trái của việc chiêm niệm, trong đó người ta vẫn thinh lặng và vẫn ở trước Nhan Đức Chúa khi Ngài ‘hoạt động’ nơi con người nội tâm của chúng ta. Khi chúng ta vẫn tiếp tục giữ được sự thinh lặng và tĩnh tại, nhiều kết quả tích cực sẽ đạt được trong việc cầu nguyện hơn là hàng loạt những hành động khác. Chúng ta càng dành nhiều thời giờ và sự tĩnh lặng cho Ngài, thì sự biến đổi mà Ngài có thể và sẽ đạt được nơi chúng ta sẽ càng lớn. Và quả thực đó là lý do vì sao tất cả những ai được trao phó những công việc khó khăn sẽ cần nhiều giờ chiêm niệm để dâng lên những thành quả của mình cũng như là để làm đẹp lòng Thiên Chúa; nếu chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình, họ sẽ không thể tiến xa được.

Lời đề nghị của cha Eymard, đó là: tình yêu tự bản chất là sự chiêm niệm. Thế nhưng sự năng động trong việc diễn tả lời đề nghị này quả là chân thực! Đối với một bức tranh hoàn hảo, cả hai khía cạnh này cần được giữ trong chiều hướng năng động với nhau, một nhiệm vụ khó khăn không thể đạt đến thành công nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa cũng như không có nhiều giờ kiên trì và nỗ lực thực hành!

Ngày 12/2

“Tình yêu không là gì khác ngoài sự phóng đại.” [ ]

Từ kinh nghiệm bản thân, tất cả chúng ta đều nhận thức rằng thật dễ để nói những lời này “Tôi yêu bạn!”. Thế nhưng việc thử luyện tình yêu thực sự luôn luôn là hành động và sự hy sinh bản thân mình. Có lẽ chúng ta quá quen thuộc với câu chuyện của một người đang yêu viết một lá thư đầy cảm xúc cho người tình của anh ta: “Vì yêu em, anh sẽ trèo lên ngọn núi cao nhất, bơi qua đại dương bao la nhất, chiến đấu với quái vật dữ tợn nhất, băng qua những sa mạc nóng nhất…” và anh ta tiếp tục tuôn tràn những lời thơ này trong nhiều trang giấy. Anh ta niêm phong lá thư trước khi gửi nó đi, đột nhiên anh ta sực nhớ một điều gì đó và viết thêm lời tái bút: “Anh sẽ gặp em vào tối thứ sáu này, nếu trời không mưa!”. Người đàn ông đã thề rằng chàng sẽ lội qua đại dương bao la nhất lại không thể can đảm trước một cơn mưa!

Ví dụ này được xem như trò diễu cợt, chúng ta không thể nhận ra sự phi lý trong chính cách đối xử của chúng ta đặc biệt là trong lời đáp trả của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thường tuyên xưng tình yêu của mình dành cho Đức Ki-tô, cho rằng chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì vì Ngài, đặc biệt sau khi đón nhận Chúa qua việc Hiệp lễ. Thế nhưng, nếu ngay sau đó, một khó khăn không mong muốn xảy ra trên đường chúng ta đi, thì chúng ta có thể rơi vào tình trạng cằn nhằn và tìm cách né tránh nó.

Tình yêu chân chính không chỉ đem lại điều tốt nhất cho con người, nhưng còn tìm cách dâng hiến đến mức tối đa. Tình yêu không bao giờ nói ‘đủ rồi!’ Và đó là lý do vì sao trong mọi tương quan tình yêu chân thật, người ta có thể phát hiện ra sự phóng đại mặc dù nó không xuất hiện trước mặt người đang yêu. Đối với họ, những mức độ thái quá này chỉ xuất hiện cách tự nhiên và phù hợp, đem đến sự mãnh liệt của tình yêu và sự nhiệt tình. Cha Eymard đề nghị rằng chỉ có tình yêu ở mức độ bị kích thích này mới đạt được những điều kỳ diệu trong cuộc đời chúng ta. Tất cả chúng ta, những con người hèn mọn, có thể sẽ khúm núm trước lời đề nghị này. Nhưng chúng ta chỉ cần nhớ rằng tình yêu mà chúng ta nói đến trong tương quan với Thiên Chúa chính là tình yêu mà Ngài đã rộng lượng tuôn đổ vào trong tâm hồn chúng ta qua Thần Khí của Ngài (Rm 5,5).

Vì thế, tất cả những gì chúng ta cần làm, đó là: mở lòng ra đón nhận tất cả những gì mà Chúa ban cho chúng ta qua lòng nhân hậu của Ngài. Điều duy nhất có thể khép kín sự mở lòng và đón nhận của chúng ta đó chính là chủ nghĩa cá nhân của chúng ta, thể hiện qua những từ ngữ: tự kiêu, sợ hãi, lo lắng, một tinh thần tính toán, một thái độ cho đi để nhận lại,… Khi chúng ta gỡ bỏ mình ra khỏi những biểu hiện này của tình yêu vụ lợi hay chủ nghĩa cá nhân, thì chính chúng ta sẽ ngạc nhiên vì sự quảng đại mà Thần Khí của Thiên Chúa có thể gợi lên nơi chúng ta. Tại sao không dành cho Ngài một cơ hội tốt và duyệt xét lại chính mình? Cần thiết phải nhớ rằng trong vấn đề này, không có điều gì xảy ra cả nếu chúng ta không cất bước, dưới sự thúc đẩy của Thần Khí hướng dẫn của Thiên Chúa. Ngài sẽ ban cho chúng ta vô số cơ hội để thực hiện điều này, một số thì đơn giản và dễ dàng, một số khác thì khó khăn và dễ nản lòng hơn, chúng ta cần cảnh giác để đón nhận những lời đề nghị này của cha, rồi sau đó đủ can đảm để hành động dựa trên những lời đề nghị đó. Thường thì chỉ cần một chút cố gắng để có thể làm cho chúng ta cảm nếm được vẻ đẹp của tình yêu tự hiến này. Kể từ lúc ấy, điều đó sẽ ngày càng giống với một cuộc hành trình không cần nhiều nỗ lực!

Ngày 13/2

“Vâng, tình yêu tiếp tục triển nở nơi những ân huệ và cảm xúc của nó.” [ ]

Dù điều đã nói trong bài suy niệm trước là hoàn toàn đúng, nghĩa là tình yêu Thiên Chúa tuôn đổ vào trong tâm hồn chúng ta nhờ Thần Khí, tuy nhiên cũng vẫn đúng khi cho rằng tình yêu, như bất kỳ nhân đức nào khác trong cuộc sống chúng ta, đòi hỏi một tiến trình trưởng thành với con đường có ‘mũi tên bị bẻ gãy’: ba bước tiến và có thể là hai bước lùi! Sự thăng tiến của chúng ta trên con đường này sẽ chậm vì loại bỏ Cái Tôi khỏi mình quả là điều không dễ chút nào! Chúng ta biết rằng chính Đức Giê-su đã dành cả ba năm trường để huấn luyện các môn đệ của Người, thế nhưng vào cuối giai đoạn này, các ông ít tỏ cho thấy mình tiến bộ thực sự trên con đường này. Dĩ nhiên, có nhiều yếu tố và những cơ hội hiếm hoi của lòng quảng đại khi Tô-ma đề nghị với nhóm môn đệ: “Chúng ta hãy cùng đi để chịu chết với Thầy” (Ga 11,16-17), hay lòng dũng cảm được cảm hứng bởi tình yêu khi Đức Giê-su bị bắt, Phê-rô đã rút gươm ra và chém đứt tai đứa đầy tớ của vị Thượng Tế (Mt 26,51-54). Gạt sang một bên những ví dụ nhất thời, điều quan trọng đối với các tông đồ là phải tiến lên phía trước, từng bước từng bước đau khổ!

Đối với tất cả chúng ta, điều này cũng sẽ trở thành khuôn mẫu bình thường cho sự thăng tiến của chúng ta. Tuy nhiên, điều duy nhất có thể giúp đẩy nhanh tốc độ thăng tiến chính là việc cẩn thận và chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Thế nhưng, mỗi lần Kinh Thánh được loan báo, chúng ta tập trung vào những ưu phẩm của Thiên Chúa được mạc khải nơi biến cố, và suy niệm những đường lối tuyệt hảo mà qua đó Ngài biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta, thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được rằng tâm hồn chúng ta được sưởi ấm và việc diễn tả lời đáp trả đầy yêu thương của chúng ta mới được đào sâu. Không ngạc nhiên lắm khi cha Eymard đề nghị rằng “một linh mục để cho một ngày trôi qua mà không đọc Kinh Thánh thì kể như đã lãng phí mất ngày đó rồi.” Linh mục ấy đã đánh mất cơ hội vàng để trưởng thành trong tình yêu Thiên Chúa qua việc dựa vào sức lực của mình, thay vì phải phó thác cho Thiên Chúa. Một cách khác có thể nhận ra những ưu phẩm của Thiên Chúa được phản ánh nơi những con người xung quanh chúng ta: lòng tốt của họ, sự sẵn sàng cho đi và giúp đỡ chúng ta trong những lúc cần, suy nghĩ chín chắn của họ,v.v.. Khi chúng ta lưu ý đến những phẩm chất này nơi người khác, chúng ta dành một ít thời giờ nghĩ đến họ trong tâm trí chúng ta, nếu chúng ta có thể thực hiện theo cách này, một trong những ‘điều ưa thích’ trong bộ nhớ của chúng ta, thì sự khác biệt sẽ chẳng xảy ra hay sao!?

Bị lãng quên do bản tính tự nhiên và nói chung là sự nông cạn trong hầu hết các mối tương quan của chúng ta, đặc biệt là trong một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà chúng ta đang sống hôm nay, chúng ta sẽ cần nhiều thí dụ về việc bị đánh động mạnh mẽ bởi tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho chúng ta trước khi chúng ta bắt đầu có thói quen suy nghĩ về dòng chảy của tình yêu. Khi chúng ta thường xuyên thực hành cách làm này, tình yêu của chúng ta không chỉ là dành cho Chúa nhưng còn cho tất cả mọi thụ tạo của Ngài. Tình yêu ấy chắc chắn sẽ triển nở một cách mạnh mẽ và đầy sáng tạo trong cách diễn tả! Một sự trợ giúp quý giá khác mà chúng ta có thể vận dụng với ích lợi to lớn đó chính là một ‘nhóm hỗ trợ’ có cùng suy nghĩ và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta bằng những kinh nghiệm của bản thân họ. Thật tuyệt vời nếu trong dịp kỷ niệm 200 năm này, một vài cộng đoàn Thánh Thể tự thành lập những nhóm này cũng như với các giáo dân, thì có thể nội tâm hóa và cụ thể hóa lời đề nghị của cha Eymard. Đó sẽ là một quà tặng cụ thể và thực tế dành cho Đấng Sáng Lập!

Ngày 14/2

“Hãy thuộc trọn về Chúa nhờ vào tình yêu, thuộc trọn về tha nhân của con nhờ vào đức ái, thuộc trọn về Thánh Thể qua việc dâng hiến và hy sinh toàn thể cái tôi của con.” [Gửi cho bà Stephanie Gourd, tháng 10/1859]

Mặc dù vào thời đại của cha Eymard, quan niệm về Giao ước mà qua đó Thiên Chúa khao khát đến với toàn thể nhân loại đã không được biết đến hay chú ý tới, thế nhưng cha, qua việc dành nhiều giờ để cầu nguyện, đã có thể khám phá ra rằng đây là điều làm cho cuộc sống có ý nghĩa. Cha không dùng thuật ngữ ‘giao ước’ nhưng quan niệm ấy chắc chắn có trong thời đại của cha! Thực ra, vào thời đại của chúng ta, chúng ta có thể nói, đặc biệt sau Công đồng Vaticano II rằng đây là ý định ban đầu mà Thiên Chúa có trong đầu khi tạo dựng con người chúng ta theo hình ảnh và chân dung của Ngài, để chúng ta bước vào mối tương quan tình yêu và sâu đậm với Ngài một cách tự do và có ý thức. Với việc sử dụng hợp lý trí khôn của mình, chúng ta khám phá ra sự phong phú của tình yêu Thiên Chúa bao nhiêu có thể, và với khả năng của ý chí tự do, chúng ta chọn lựa mức độ của tương quan tình yêu và sống tương quan ấy. “Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi và các ngươi sẽ là Dân của Ta!” chính là cách diễn tả mối tương quan này của Thiên Chúa trong Kinh Thánh.

Vì thế, từ trong sâu thẳm của mỗi người, có một sự thôi thúc nồng cháy để thuộc trọn về Chúa. Thánh Phao-lô nhấn mạnh điều này: “Chúng ta không sống cho chính mình, cũng như không chết cho chính mình. Nếu chúng ta sống là sống cho Chúa, và nếu chúng ta chết là chết cho Chúa; vì thế dù sống hay chết, chúng ta cũng thuộc về Chúa” (Rm 14,7-8). Thế nhưng, cùng lúc ấy, thật là nghịch lý, khi có một nỗi sợ hãi khó hiểu và sự cẩn trọng vì nếu thuộc trọn về Ngài, chúng ta sẽ đánh mất đi quyền làm chủ trên đời sống của chính mình. Đây là sự ảo tưởng khiến chúng ta bám vào Cái Tôi, thậm chí khi chúng ta nhận ra rằng tất cả những gì Cái Tôi có thể đem lại cho chúng ta thì đau đớn và khổ đau hơn nhiều. Bấy giờ, không cần phải băn khoăn khi biết rằng ngay từ lúc khởi đầu việc rao giảng, Đức Giê-su đã thúc giục các môn đệ ‘từ bỏ chính mình… nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi… ai không từ bỏ cha mẹ… thậm chí cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được’ (Mt 10,37; 19,5; Ga 12,24). Không chỉ dừng lại ở lời giáo huấn này, Đức Giê-su còn để lại cho chúng ta mẫu gương tuyệt hảo về chính cuộc đời của Người, được đúc kết một cách thuyết phục trong thánh thi: “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa; trút bỏ vinh quang… vâng lời… cho đến nỗi chết, chết trên thập  giá” (Pl 2,5-11). Việc hoàn toàn trút bỏ chính mình của Đức Giê-su đã đưa Người đi vào mối dây liên kết không thể diễn tả được với Chúa Cha: ‘Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người… và ban tặng một danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu…’

Tuy nhiên, theo một cách thức riêng biệt, cha Eymard còn đi xa hơn. Dù chúng ta thích hay không thích, chúng ta vẫn hoàn toàn thuộc trọn về Chúa. Điều mà cha Eymard thêm vào, đó là: chúng ta tái khẳng định điều này một cách có ý thức và bằng tình yêu. Vì chính tình yêu sẽ tạo nên sự khác biệt và tạo ra giá trị vô biên đối với việc hy sinh chính mình của chúng ta! Và nhiều lần cha đã diễn tả ở nhiều chỗ khác rằng tình yêu bao hàm sự phóng đại. Cha cũng nắm bắt được khía cạnh kép của tình yêu: Nếu tình yêu là chân thật thì tình yêu ấy phải mở ra với Thiên Chúa cũng như với tha nhân, tình yêu ấy phải nối kết với Thánh Thể và với việc trao ban chính mình trong sự hy sinh đầy yêu thương!

 

Ngày 15/2

“Hãy để tâm trí của bạn hướng về Chúa chúng ta đang ngự trong Bí Tích Cực Thánh, và hãy suy niệm về tình yêu của Ngài” [ ]

Trong lời trích dẫn trước, cha Eymard nối kết sự hy sinh của chúng ta với Bí Tích Thánh Thể như lễ vật hy sinh. Trong lời trích dẫn này, cha đã nhìn Bí Tích Thánh Thể dưới một khía cạnh khác, đó chính là mẫu gương tự hiến mình của chính Chúa Giê-su để khai sáng và làm gương cho chúng ta. Điều này không xảy đến với cha Eymard vì đây chính xác được xem là một “lời loan báo”, cách nói này không có trong thời đại của cha. Nhưng sau Công Đồng Vaticanô II, chúng ta biết rằng một “lời loan báo” là một sự giao tiếp (bằng lời nói, hành động, bài hát hay bất cứ hình thức truyền tin khác) để lôi kéo người nghe và làm cho họ trở thành một phần trong sứ điệp được truyền tải. Khi điều này xảy ra, người nghe sẽ nhận ra rằng sứ điệp này không chỉ như lịch sử, một điều gì đó xảy ra ở đâu đó, nhưng như là “câu chuyện của tôi” về mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa cũng như sự hiện diện của Người đối với tôi ngày hôm nay! Khi điều này xảy ra, một “lời đáp trả” cần thiết phải diễn ra và nói chung, lời đáp trả này liên quan đến tất cả mọi người. Vì đây là sức mạnh của lời loan báo!

Vì thế, trong suốt Thánh Lễ, khi chúng ta lắng nghe (phụng vụ Lời Chúa) hay làm chứng cho sự hiến mình hoàn toàn của Chúa Giê-su bằng tình yêu (phụng vụ Thánh Thể) và làm cho sứ điệp này trở thành một phần trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta không thể lẩn tránh nhưng phải đối diện với câu hỏi ‘Chúa Giê-su yêu thương tôi và hiến mình vì tôi, tôi phải làm gì và muốn dâng gì cho Ngài’? Và nếu ý thức về việc tham dự Thánh Lễ của mình, chúng ta sẽ biến lời đáp trả của chúng ta thành hành động, bắt đầu từ những cử chỉ trong suốt Thánh Lễ và sau đó kéo theo hành vi dâng hiến chính mình trong suốt cả ngày sống. Bằng cách này, việc suy niệm của chúng ta mới trổ bông thành gương lành phúc đức. Sau việc cử hành này, chúng ta sẽ nói như thánh Phao-lô “Không phải tôi sống, nhưng chính Đức Ki-tô sống trong tôi”.

Nếu chúng ta cử hành Thánh Lễ theo cách này giống như một lời loan báo ngày qua ngày, tự động chúng ta sẽ có thói quen luôn hướng nhìn về Chúa Giê-su, và hỏi Ngài sau mỗi bước rằng: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì cho Chúa? Sự phục vụ của chúng ta vì Nước Trời sẽ ngày càng tự phát và mang đậm dấu ấn tình yêu, vì thế nó sẽ đem lại nhiều kết quả hơn trong việc làm cho vương quyền của Chúa hiển trị giữa chúng ta. Bấy giờ, tình yêu của chúng ta sẽ không chỉ ở trong tâm trí và con tim của chúng ta, nhưng sẽ được biểu lộ ra bằng hành động vì Nước Trời.

Hơn thế, vào thời đại của cha Eymard, người ta không phân biệt rõ ràng giữa việc cử hành Thánh Thể với “Bí Tích Cực Thánh” hay sự hiện diện vĩnh cửu. Họ cũng không dừng lại để suy nghĩ xem cái được đặt trong bình thánh chính là tấm bánh được bẻ ra từ việc cử hành Thánh Thể! Đó chính là “sự bẻ nát”  thân mình của Chúa Giê-su để nuôi sống chúng ta, mời gọi chúng ta cũng biết bẻ chính mình bằng tình yêu tự hiến vì người khác. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện trước Chúa Giê-su, Đấng đang hiện diện trong hình bánh bị bẻ ra, mà lại không làm một điều gì đó cho những nơi mà trong đó chúng ta vẫn có khuynh hướng từ chối chấp nhận bị bẻ ra qua việc làm theo thánh ý Thiên Chúa?

Ngày 16/2

“Thiên Chúa đã cùng chung chia với cuộc sống của con người, công việc của con người cũng như lương thực của người nghèo” [ ]

Khi bàn về Giao Ước, người ta thường nhấn mạnh đến chân lý, đó là: Chúng ta, những con người bình thường, được mời gọi để chia sẻ sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nói chung chúng ta không dừng lại để suy xét đến khía cạnh khác của chân lý này, đó là: Thiên Chúa cũng hoàn toàn chia sẻ cuộc sống tầm thường của con người chúng ta. Thư gửi tín hữu Do Thái khẳng định điều này một cách mạnh mẽ khi nói: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta, nhưng Người đã chịu thử thách về mọi phương diện y như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi là Người không hề phạm. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để lãnh nhận lòng thương xót và tìm thấy ân sủng hầu được trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4,15-16).

Một khía cạnh khác mà chúng ta cần suy xét cẩn thận và lâu dài, đó là: khi chúng ta cam kết để chia sẻ sự sống của Thiên Chúa trong và qua các Bí Tích, thì chính Thiên Chúa cũng cam kết gìn giữ chúng ta cũng như niềm hạnh phúc của chúng ta một cách chân thật và tín thành. Kết quả của bản cam kết qua lại này chính là việc chúng ta không bao giờ có thể xem mình như một cá thể “đơn lẻ” hay những đứa con mồ côi như Chúa Giê-su đã nói. Thiên Chúa đến để nâng đỡ chúng ta đặc biệt khi chúng ta gặp thử thách vì danh Người. Trong sách ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa nhắc nhở dân Người: “Người đàn bà lại có thể quên đứa con của mình, hay không tỏ lòng thương xót đến đứa con mình cưu mang sao? Dù cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì Ta vẫn không quên ngươi. Hãy xem, Ta đã khắc tạc các ngươi vào lòng bàn tay của Ta” (49,15-16).

Thiên Chúa chia sẻ rất nhiều với nhân loại, cụ thể: Người sống gần gũi với những người nghèo và những tấm lòng tan vỡ, thật là chính đáng vì những con người này không được ai bênh đỡ và bảo vệ quyền lợi cho họ! Thiên Chúa trở thành người bạn đồng hành, người thân máu mủ ruột thịt ràng buộc về trách nhiệm để đến hỗ trợ khi bị bách hại hay chà đạp. Dù những người thân thuộc đôi lúc quên chúng ta hay thậm chí bỏ rơi chúng ta trong hoàn cảnh bi đát đi nữa, thì không bao giờ có thể tưởng tượng rằng Thiên Chúa lại làm điều đó. Người là Đấng trung thành. Ý tưởng này thật mạnh mẽ biết bao khi chúng ta nhớ lại rằng có nhiều lúc trong cuộc sống của con người, họ cảm thấy mất tin tưởng, bị công kích từ nhiều phía cũng như bị mọi người loại trừ. Đấng Cứu Độ chúng ta luôn trung thành với lời cam kết của Người, và sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta mỗi khi chúng ta cần.

Mỗi Ki-tô hữu được sai đi vào trần gian này như một sứ giả và một chứng nhân cho lòng trung thành của Tình Yêu Thiên Chúa. Nhưng trước khi chúng ta có thể loan báo điều này cho người khác, thì chính chúng ta cần phải cảm nghiệm điều đó trước để chúng ta thực sự sống điều chúng ta loan báo. Quả thực, đây là thách đố đối với mỗi người “tôn thờ” thực sự để có được tình yêu và lòng dũng cảm. Họ phải là người đầu tiên vượt qua chính mình cũng như những nghi kỵ và sợ hãi ẩn tàng từ bên trong. Được trang bị bằng chính tình yêu trung thành này, những lời của họ sẽ đem lại sức mạnh và sự an bình cho những ai đang gặp đau khổ, đặc biệt khi họ có ý định quên lãng hay xem nhẹ những lời đảm bảo của Thiên Chúa. Người tôn thờ đích thực trở nên cuốn Tin Mừng sống cho tất cả mọi người để đọc thấy lòng trung thành của Thiên Chúa đã được thể hiện qua đời sống của mình! Đời sống của người ấy là một sứ điệp sống động được loan báo cho tất cả những ai chăm chú lắng nghe: “Ai có tai thì hãy nghe” (Mc 4,3-9).

Ngày 17/2

“Dưới cái nhìn của Thiên Chúa, bạn sẽ là cái bạn là”. [ ]

Ngày nay, các nhà tâm lý học nhắc nhở chúng ta rằng những điều kiện cơ bản cần thiết để có được một cuộc sống hạnh phúc và ý nghĩa trên trần gian chính là phải có một sức khỏe và vóc dáng cân đối. Thế nhưng, tất cả mọi người đều lao động dưới những gánh nặng được đặt lên họ ngay từ thưở bé, kìm hãm họ đến nỗi họ không thể thực sự trở nên “tốt được”. Dường như, tất cả chúng ta đã đặt lối suy nghĩ này vào trong đầu mình khi cho rằng người ta chỉ trở nên “hoàn thiện” trước khi họ có thể được chấp nhận, không chỉ được Thiên Chúa chấp nhận, mà còn cả những người xung quanh nữa. Như vậy, suốt cuộc đời, do buộc những khối đá to lớn (sự chối bỏ bản thân) trên cổ của mình, nên hầu hết mọi người ít khi nhận ra điểm tích cực nào nơi bản thân mình.

Đây là vấn đề muôn thưở đối với con người qua nhiều thế kỷ, có lẽ chỉ trong chính thời đại của chúng ta thì chúng ta mới bắt đầu xác định nó như là một trong những gánh nặng không cần thiết lắm mà chúng ta phải gánh vác trong suốt cuộc đời. Cũng trong vấn đề này, có lẽ cha Eymard đi đầu trong thời đại của ngài, khi nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta thực sự là gì dưới cái nhìn của Thiên Chúa! Ngay cả nhà thần học mục vụ nổi tiếng như Henri Nouwen cũng tỏ ra cho thấy ngài đã phải mất nhiều năm để nhận ra chân lý này- ngài dễ dàng tin tất cả những lời lẽ xung quanh nói rằng ngài xấu hay thiếu sót hơn là lắng nghe lời nói tin cậy của Chúa đang nhắn nhủ ngài: “Con là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con”. Chỉ sau khi ngài bắt đầu đón nhận những lời của Thiên Chúa một cách nghiêm túc, thì ngài mới cảm nghiệm được đôi chút về sự an bình nội tâm cũng như sự mãn nguyện.

Thực sự, Thiên Chúa nhìn chúng ta cũng như mỗi con người do Người tạo nên như thế nào? Quả là không sai khi nói rằng Thiên Chúa nhận ra nơi chúng ta hình ảnh của chính Người, không phải là hình ảnh đã bị bóp méo vì sự thiếu quan tâm cũng như tội lỗi của chính chúng ta, nhưng là chính tiềm năng lớn lao mà Người đã đặt vào trong con người chúng ta, tiềm năng mà Người luôn luôn tìm kiếm để nhận ra nó trong cuộc đời chúng ta, nếu chúng ta để cho Người nắn đúc chúng ta! Ngay cả khi chúng ta đến trước nhan Người như những tội nhân, sự quan tâm của Người cũng hướng về con người chúng ta, đến việc chúng ta “là ai” hơn là chúng ta “như thế nào?”.

Giống như một bà mẹ luôn để mắt trông chừng đứa con của mình đang nô đùa trong vườn, rồi chạy vào nhà mà trên mình đầy lấm lem. Khi bà nhìn thấy những vết bẩn trên mình đứa con, bà sẽ chỉ để ý đến đứa con yêu dấu trước mặt bà, mà không quan tâm đến những vết bẩn! Và bằng tình yêu khôn tả dành cho đứa con (và có thể là không ai giúp), bà sẽ nhanh chóng rửa sạch các vết bẩn đó dù biết rằng có thể chỉ vài phút sau, đứa con của mình lại ra vườn nô đùa và lại dính bẩn. Ít khi bà mẹ phạt đứa con nhỏ vì chúng nghịch bẩn. Nhưng hy vọng sâu xa bên trong của bà, đó là: tình yêu tuyệt đối bà vẫn tỏ ra cho đứa con của mình một ngày nào đó sẽ giúp nó gọn gàng và sạch sẽ hơn. Vì thế, trong mối tương quan của chúng ta với Chúa Cha, chúng ta là ai dưới cái nhìn của Thiên Chúa mới là vấn đề quan trọng, và khi chúng ta tập trung vào điều này thì chúng ta mới hy vọng rằng chúng ta sẽ trở nên cái mà Thiên Chúa nhìn thấy nơi chúng ta.

Ngày 18/2

“Hãy làm tất cả mọi sự để làm đẹp lòng Chúa” [lời khuyên dành cho một người con linh hướng]

Đây là một cách nói khác của câu nói: “Hãy làm mọi sự theo ý muốn của Thiên Chúa” vì đây là điều thực sự làm đẹp lòng Chúa Cha: sự vâng phục của chúng ta! Tin Mừng có rất nhiều câu trích dẫn lặp lại chân lý này theo nhiều cách khác nhau. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa! là sẽ được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi… Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà tuyên sấm, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta sẽ không hề biết các ngươi, xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!… Vậy hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá” (Mt 7,21-24).

Hay là “phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50 -13,1). Hay “nhưng đó là để thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31-15,1)… “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ tuân giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại nơi người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không tuân giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai phái Thầy.” (Ga 14,23-24). Vâng lời Chúa Cha là điều cốt yếu và quan trọng đối với Chúa Giê-su, đối với cha Eymard cũng vậy. Cha giống như cục đất sét trong tay người thợ gốm, để cho Thiên Chúa nắn đúc mình theo như ý Người muốn.

Nhận ra tầm quan trọng cốt yếu của sự vâng phục trong đời sống người Ki-tô hữu và hơn nữa là trong đời sống của một người tôn thờ thực sự, cha Eymard không thể không khuyên nhủ người con linh hướng của ngài cũng như tất cả những ai ao ước bước theo ngài. Cha nhận ra sự vâng phục là hoa trái trực tiếp và đầu tiên của tình yêu chân thật, như chính Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ. Tình yêu được biểu lộ bằng những lời nói thoáng qua thì không bằng sự vâng phục được dâng lên, đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn của cuộc đời. Chúa Giê-su đã nhắc nhở chúng ta, ai trung thành trong những việc nhỏ thì cũng trung thành trong những việc lớn hơn. Hơn nữa, sự vâng phục được thể hiện trong mọi hoàn cảnh, không chỉ khi nó phù hợp với cách suy nghĩ của chúng ta. Đặc biệt nó có giá trị và làm hài lòng Chúa Cha khi nó bao gồm cả việc “chết đi cho chính mình” cũng như cách suy nghĩ của mình. Đó là lúc chúng ta dâng lên Thiên Chúa cái duy nhất và trước tiên trong cuộc đời chúng ta.

Sự vâng phục của chúng ta càng lan tỏa, thậm chí là bao trùm mọi giây phút trong cuộc đời chúng ta, thì chúng ta càng làm hài lòng Người. Vì điều này, chúng ta cần đào luyện chính mình để nhận ra Chúa Giê-su đang hiện diện nơi mỗi người xung quanh chúng ta. Hơn thế, chúng ta sẽ được trợ giúp nếu chúng ta nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động qua những tình huống trong cuộc đời chúng ta, dù trong những đau khổ ấy, chúng ta bị thử thách để vượt qua. Bấy giờ Người sẽ nói với chúng ta như đã nói với Chúa Giê-su, Con của Người rằng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).

 

Ngày 19/2

“Đừng bao giờ làm vì sự thành công, nhưng là để hoàn thành Thánh ý của Thiên Chúa” [lời khuyên dành cho những người con linh hướng].

Lời hướng dẫn này của cha Eymard dường như là đi ngược lại với tất cả những gì mà thế giới ngày nay nói với chúng ta. Tự đáy lòng mỗi người luôn có một ước muốn thầm kín là được nổi danh, trở nên một người nổi tiếng nếu có thể, để chìm ngập dưới ánh đèn của lời tán dương nơi thế gian, để làm lóe mắt mọi người bằng những thành tựu cũng như những thành công của chúng ta. Không ngạc nhiên gì khi cha Eymard dành lời khuyên này cho người con linh hướng của cha, bởi vì từ chính kinh nghiệm bản thân của cha, cha nhận ra rằng ước muốn này nếu không được kiểm soát và kiềm chế kịp thời, có thể đưa đến những vấn đề đáng tiếc. Vì lẽ, thành công mà thế gian đánh giá, thường giống như một cái xô không có đáy đến nỗi mà người ta không bao giờ cảm thấy thỏa mãn về những gì mình đạt được. Thực tế, người ta càng được nổi tiếng, thì người ta lại càng mong muốn được nổi tiếng hơn. Bên cạnh đó, cũng có một nỗi sợ hãi rằng người khác có thể làm tốt hơn tôi và cướp đi ánh đèn của tôi.Và khi người khác nổi hơn tôi, thì sự nổi tiếng của tôi sẽ là gì? Có lẽ tôi sẽ bị xếp xó lên kệ như đã từng bị, một đồ vật trưng bày trong viện bảo tàng của Cuộc đời!

Nếu đó không phải là lời tán dương của thế gian mà chúng ta đang tìm kiếm, vậy thì cái gì sẽ đem lại cho chúng ta một ý nghĩa sâu sắc về sự hoàn thành? Như thánh Augustino đã nói, ‘Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con vẫn cứ khắc khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa!’ Làm theo ý muốn của Thiên Chúa bằng khả năng tốt nhất của chúng ta chính là điều sẽ lấp đầy tâm hồn chúng ta. Người ta phải cảm nghiệm được điều này để nhận ra sự thực như thế nào. Lời tán dương của thế gian đưa chúng ta lên tầng mây thứ chín trong một thời gian ngắn, rồi dẫn chúng ta đến cảm xúc bên trong mà tất cả chúng ta thất vọng tìm cách tránh né. Nhưng khi chúng ta cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui đích thực của Thiên Chúa, sự an bình và niềm vui chỉ có Người mới có thể đem đến, thì kinh nghiệm ấy không chỉ lấp đầy chúng ta mà còn làm cho chúng ta ước muốn để càng từ bỏ Cái Tôi, để chúng ta có thể đón nhận Thiên Chúa trong tất cả sự viên mãn của Người. Khi chúng ta cảm nếm được tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ đón nhận lời khuyên của Người để từ bỏ Cái Tôi bằng một sự nhiệt thành và dũng cảm lớn lao, thậm chí là tiếp tục cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta có được lòng khiêm nhường mỗi ngày để làm cho chúng ta luôn ở gần Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Chúa Giê-su đã phán dạy chúng ta: “Thầy nói những điều này với anh em để niềm vui của Thầy ở lại trong anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 15,11). Chúa Giê-su mời gọi chúng ta liên kết với Ngài qua việc tuân giữ lời Chúa một cách hoàn hảo, để chúng ta có thể cảm nghiệm được niềm vui và sự bình an mà thế gian không thể ban tặng cũng như không thể cướp mất. Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa đổ tràn những ơn lành của Người trên chúng ta: “Ôi dân Ta mà đã nghe lời, Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ! Thì hết những kẻ thù ấy, những kẻ hà hiếp xưa nay, Ta tức khắc trở tay quật ngã… Ta sẽ nuôi các ngươi bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Ta cho hưởng thỏa thuê” (Tv 81,13-16). Thiên Chúa muốn điều tốt nhất cho chúng ta, nếu chúng ta để cho Người có cơ hội thi ân giáng phúc trên chúng ta qua việc chúng ta vâng nghe lời Người cũng như hoàn toàn làm theo ý muốn của Người! Mặc dù cách làm này do cha Eymard khuyên bảo có thể không làm chúng ta nổi tiếng, nhưng chắc chắn nó sẽ đem đến cho chúng ta sự bình an và sự mãn nguyện sâu thẳm.

Ngày 20/2

“Hãy tìm kiếm niềm vui nơi Thiên Chúa, chứ không phải nơi con người” [ ]

Niềm vui là một điều thiết yếu trong đời sống của chúng ta. Mỗi người đều tìm kiếm niềm vui để được hạnh phúc và hài lòng với những gì mình có, mặc dù kinh nghiệm của chúng ta cho thấy rằng chưa một người nào có thể tìm được hạnh phúc hoàn toàn. Luôn luôn có một sự không hài lòng ngay trong những lúc vui nhất, như tục ngữ có câu ‘con sâu làm rầu nồi canh”, nhưng dường như là chính Thiên Chúa đã loại bỏ những thiếu sót nhỏ bé đó trong việc trang điểm của chúng ta, khiến chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần phải hướng tới niềm vui trọn vẹn mà chỉ một mình Người mới có thể đem lại và niềm vui đó là chính Người. Như chúng ta đã biết trong lời trích dẫn trước của cha Eymard, Chúa Giê-su đã chỉ cho chúng ta con đường để đạt đến sự trọn hảo, đó là từ bỏ mình để làm theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi lúc. Nhiều lúc, điều này có thể là rất khó, thế nhưng đây chính là giải pháp duy nhất cho lòng khát khao muốn được hạnh phúc mãi mãi của chúng ta.

Các nhà tâm lý nhắc nhở chúng ta rằng ‘hạnh phúc là một công việc từ bên trong’, nghĩa là hạnh phúc chủ yếu phát xuất từ một thái độ bên trong đối với cuộc sống; chứ không phải từ bên ngoài, chẳng hạn như: từ rượu, phụ nữ hay bài hát nào đó! Đó chính là kết quả của một sự xác tín rằng Thiên Chúa gìn giữ chúng ta trong lòng bàn tay Chúa, và sẽ không bao giờ quên chúng ta bởi vì chúng ta là những đứa con yêu dấu của Người bất luận chúng ta có tội lỗi đến mấy đi nữa! Tình yêu của Người dành cho chúng ta quá vĩ đại đến nỗi đã làm cho Người sai Con Một của mình, là Chúa Giê-su, đến để giúp chúng ta trở về với Người và Chúa Giê-su đã đổ tràn tình yêu trên chúng ta đến nỗi Ngài chọn lựa để ở lại giữa chúng ta nơi Bí tích Tình yêu tuyệt vời nhất, thứ tình yêu thánh thiêng duy nhất mới có thể nghĩ ra cách đơn giản nhưng rất hiệu quả để ở lại với chúng ta.

Thế nhưng, nhiều người ngày hôm nay lại thích bỏ một giờ đồng hồ trước Ti-Vi để xem hàng loạt chương trình hơn là dành một ít phút cho Chúa, ngồi dưới chân Ngài để lắng nghe Ngài, như cô Ma-ri-a xưa! Và Chúa Giê-su đã chẳng nói rằng ‘Cô đã chọn phần tốt hơn và không ai có thể lấy mất! Thật kỳ lạ, trong lúc chúng ta có thể ở yên hàng giờ trước Ti-vi, thì khi cầu nguyện, chúng ta lại cảm thấy rất khó ở yên trước Nhan Thánh Chúa! Hơn nữa, cha Eymard không khuyên chúng ta tránh né con người, nhưng nhắc nhở chúng ta rằng việc hòa đồng với con người chính là cách mà qua đó chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi từng người trong số họ. Chắc chắn là họ có những thiếu sót, thế nhưng nếu chúng ta biết cách sàng lọc những thiếu sót này và tìm thấy một vài đức tính tốt của họ, thì chúng ta sẽ dễ dàng gặp được Thiên Chúa là niềm vui của chúng ta. Càng thành thạo trong nghệ thuật này, chúng ta sẽ càng cảm nhận được sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa nơi tất cả mọi người sống xung quanh chúng ta. Quả thực, bấy giờ cùng với tổ phụ Gia-cóp, chúng ta có thể thốt lên rằng: “Nơi này thật đáng sợ! Đây không phải là gì khác, mà chính là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời” (St 28,17).

Vả lại, khi chúng ta liên hệ với những con người được đổ đầy tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta có thể để ý đến những thiếu sót của họ nhưng những thiếu sót ấy không làm chúng ta thất vọng; thay vì buộc tội và khiển trách họ, chúng ta lại nhìn họ với một ánh mắt cảm thông và đầy yêu thương, hớn hở đến với họ bằng tình yêu chữa lành của Thiên Chúa.

Ngày 21/2

“Thiên Chúa luôn luôn có trật tự, chân lý và công lý” [ ]

Trong sách Sáng Thế, công trình sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả theo kiểu đem sự trật tự ra khỏi sự hỗn độn và khi Thiên Chúa đã hoàn tất công trình do tay Ngài thực hiện ‘Ngài thấy mọi sự đều tốt đẹp!’ (St 1,31). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa không bao giờ được tìm thấy trong sự mất trật tự cũng như sự hỗn độn nhưng là trong trật tự và yên bình, trong chân lý và công bình. Trong Giao ước thứ nhất, chúng ta thấy rằng hết lần này đến lần nọ, Thiên Chúa can thiệp qua những ngôn sứ và những vị thủ lãnh của Ngài để đem công bình đến cho dân. Đôi lúc, đau khổ của dân Thiên Chúa được dịch bằng những thuật ngữ: đền bù tội lỗi của họ, nhận lãnh một sự trừng phạt vì sự bất tùng phục của mình. Nhưng ở đây, Thiên Chúa đoan chắc rằng các dân bị giáng phạt vì không thực hiện lệnh truyền. Và nếu họ vượt quá những chỉ dẫn của mình, Thiên Chúa lại can thiệp và đem lại sự ủi an và an bình cho dân Ngài. Chúng ta nhận ra điều này một cách rõ ràng trong những lời sấm của tiên tri Isaia trong biến cố lưu đày ở Babylon.

Hai kết quả phát sinh từ việc đón nhận chân lý này: trước tiên là khi chúng ta đặt mình vào trật tự, công bình, chân lý và tình yêu, chúng ta thực sự cộng tác với Thiên Chúa. Mặc dù những nỗ lực của chúng ta dường như là vô dụng, nếu chúng ta có thể giữ vững trong đức tin, chúng ta sẽ thấy rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng “Chân lý luôn luôn chiến thắng’, lời khẳng định này được minh chứng theo thời gian cũng như trong Kinh Thánh và trong đời sống của nhiều người xung quanh chúng ta.

Thứ hai, ở đâu chúng ta là những sứ giả của sai lầm, hỗn độn và lộn xộn xung quanh chúng ta, chúng ta không thể hy vọng cảm nghiệm được sự hiện diện gần gũi và mang tính cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ luôn luôn đứng về phía những kẻ bị chống đối, và thậm chí nếu công lý dường như tránh né họ trong một thời gian dài, thì cuối cùng Ngài sẽ tỏ lộ uy quyền và tình yêu của Ngài. Niềm tin vào ưu phẩm này của Thiên Chúa làm phát sinh sự diễn tả ‘vào ngày thứ ba’, cho thấy ngày Thiên Chúa sẽ đảo ngược tình thế bất công hay tiêu cực để đem lại ích lợi cho mọi dân hay mọi nước. Không thể có một sự bất công nào dành cho con người nặng nề hơn là cách đối xử dành cho Đức Giê-su khi Người bị xử án một cách bất công và bị đóng đinh như một kẻ đáng nguyền rủa. Thế nhưng, ‘Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy vào ngày thứ ba và cho Người ngồi bên hữu trong Nước Ngài’ để đảm bảo rằng tất cả mọi người không quan trọng là những kẻ bất chính mắc tội chống lại ơn trợ giúp, cuối cùng Thiên Chúa sẽ luôn luôn sửa chữa sai lầm.

Chính bằng sự tin tưởng này mà chúng ta cần phải làm việc để thiết lập công lý, hòa bình, hài hòa và ý chí tốt trong mỗi tình huống. Việc cử hành Thánh Thể của chúng ta đòi hỏi chúng ta ra công làm việc cho hòa bình và công lý khắp mọi nơi. Nói chung, đây là một nhiệm vụ diễn ra một cách chậm rãi và đòi hỏi đức tin siêu việt vì nó bao gồm một nỗ lực vượt qua tính ích kỷ cũng như những mối bận tâm của con người về những thứ đáng ghét nhất cần loại bỏ. Nhưng ‘đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể được’ (Mt 19,26).

Ngày 22/2

“Thiên Chúa luôn luôn tìm vinh quang của Người từ sự hy sinh cá nhân, từ sự hy sinh bản thân.” [ ]

Người ta cho rằng chỉ có hai thực tại trong thế giới, đó là: Thiên Chúa và Cái Tôi. Điều này có nghĩa là Cái Tôi càng nhiều nơi một người nào đó, thì Thiên Chúa lại ít có thể tham gia vào bức tranh và ngược lại. Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo của chúng ta, không chỉ biết điều gì tốt nhất cho chúng ta, nhưng Người còn mong ước đem lại cho chúng ta tất cả những ân huệ tốt lành của Người: “Ta sẽ là Chúa các ngươi…” Người đảm bảo cho chúng ta như vậy. Nhưng khi điều này xảy ra, chúng ta cần ‘dọn chỗ” cho Người đến trong cuộc đời chúng ta. Và điều này chỉ có thể thực hiện được qua sự hy sinh bản thân, hay là việc hoàn toàn ‘chết đi cho cái tôi của mình’. Bất cứ điều gì có thể xảy ra, chúng ta càng tìm cách đẩy lui Cái Tôi, thì Thiên Chúa càng chi phối cuộc đời chúng ta và mạc khải vinh quang của Người.

Thánh I-rê-nê nói với chúng ta rằng ‘vinh quang của Thiên Chúa chính là con người sống sung mãn’. Vì thế, không băn khoăn gì vì Thiên Chúa đã sai Con của Người là Đức Giê-su đến, để chúng ta có sự sống và sống dồi dào (Ga 10,10) và Đức Giê-su không chỉ nói với chúng ta về sự cần thiết của việc chết đi cho Cái Tôi, vác thập giá mình vâng theo Chúa Cha, nhưng còn để lại cho chúng ta một mẫu gương thực tế khi Ngài tiến lên đồi Can-va-ri-ô và chấp nhận chết trên Thập giá, mặc dù Ngài vô tội. Nhận ra tầm ảnh hưởng nguy hiểm của Cái Tôi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, nhiều vị đại thánh cũng như những bậc thầy lỗi lạc trong đời sống tâm linh khuyên chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khiêm nhường kiên vững mỗi ngày! Ý tưởng đằng sau lời đề nghị này không phải là chúng ta cần bị nghiền nát, hay nuông chiều theo thói bạo hành hay sự khổ dâm nhưng là để Cái Tôi không còn xuất hiện trong cuộc đời chúng ta nữa. Sự tích cực của điều này là vinh quang Thiên Chúa sẽ được tỏ lộ cách rõ ràng hơn nơi chúng ta, để cho thấy Cái Tôi đã bị loại bỏ.

Những người khác làm việc này bằng cách loại bỏ Cái Tôi dưới những hình thức khác nhau. Thánh Gioan Maria Vi-a-nê, chẳng hạn, đã làm việc này thông qua những hình thức phi thường của việc ăn chay và phạt xác. Những vị khác chẳng hạn như thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su cũng đạt được kết quả tương tự qua sự khiêm nhường và tình yêu trong cách đối xử với người khác, đặc biệt là đối với những người mà theo bản tính tự nhiên chị cảm thấy không ưa thích. Mỗi người đều có những phương pháp đặc biệt riêng của mình để đạt được mục tiêu, nhưng không có con đường nào ngoài con đường từ bỏ Cái Tôi trong việc bước theo Đức Giê-su. Chúng ta càng quảng đại trong lĩnh vực này, chúng ta sẽ càng cảm nghiệm được quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta.

Một điều quý giá cần giữ lại trong tâm trí là “…Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Ðức Kitô Giêsu, Ðấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa: Ðấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và giải thoát anh em, hợp như lời đã chép rằng: ‘Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa’” (1 Cr 1,27-31). Đây là khuôn mẫu từ cổ thời, vì thế không cần phải sợ để làm theo, điều đó sẽ dẫn chúng ta đến sự sống đời đời, vào giờ của Thiên Chúa!

Ngày 23/2

“Hãy tin tưởng khi cầu nguyện; đó chính là sức mạnh không hề lay chuyển mà Thiên Chúa ban cho chúng ta.” [ ]

Đối với hầu hết các Ki-tô hữu, cầu nguyện là vấn đề xin xỏ điều gì đó từ Thiên Chúa khi không ai có thể giúp đỡ chúng ta khi chúng ta cần. Tuy nhiên, bài suy niệm ngắn này sẽ chỉ ra rằng cầu nguyện không có nghĩa là thông báo cho Thiên Chúa về những gì xảy ra cho chúng ta, như thể là Người đã không biết mọi sự! Đó cũng không phải là vấn đề ‘khóa chặt bàn tay của Thiên Chúa’ để buộc Người ban cho chúng ta những gì chúng ta muốn, thế nhưng Người biết điều đó không tốt cho chúng ta! Cầu nguyện chính là vấn đề từ bỏ chính mình để chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa trong cuộc đời mình và vâng theo lời của Người. Đức Giê-su đã phán dạy chúng ta “Không phải bất cứ ai nói ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’ là sẽ được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha trên trời” (Mt 7,21). Vì như ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói ‘Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi – sấm ngôn của Ðức Chúa -, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng’ (Gr 29,11).

Những kế hoạch của Thiên Chúa đều là những điều tốt nhất đối với chúng ta, nhưng Cái Tôi lại ở nơi chúng ta, vì tầm nhìn và sự hiểu biết của nó thì có giới hạn, nên nó không thể lúc nào cũng cùng chung cái nhìn với Thiên Chúa và do đó nó sẽ tìm cách ngăn cản. Khi chúng ta đến trước mặt Chúa trong lúc cầu nguyện, điều chúng ta phải làm đó là, trước hết, thinh lặng để chúng ta có thể lắng nghe sứ điệp của Người nói với chúng ta. Nếu chúng ta mở lòng ra và đón nhận, Thiên Chúa sẽ dẫn dắt chúng ta ngang qua Thần Khí của Người để hoàn toàn đón nhận ý định của Người cũng như những ơn lành thường xuyên mà Người đặt vào trong chúng ta. Vì thế, ân huệ của cầu nguyện chính là ân huệ của Chúa Cha để đảm bảo rằng chúng ta luôn luôn mở lòng ra với ý định của Người dành cho chúng ta.

Song song với khía cạnh nền tảng này của việc cầu nguyện, cũng có một hình thức cầu nguyện tạ ơn và ngợi khen mà qua đó chúng ta ngợi khen Thiên Chúa vì sự nhân lành chúng ta nhận ra nơi Người cũng như trong cách đối xử của Người với chúng ta, hay thậm chí là những hành động kỳ diệu của Người được diễn tả trong Sách Thánh. Nhiều Thánh vịnh cũng là một ví dụ hữu ích của việc cầu nguyện này. Tuy nhiên ý tưởng mà chúng ta có ở đây sẽ là một lời ngợi khen Thiên Chúa hoàn toàn vô vị lợi, nghĩa là chúng ta ngợi khen Thiên Chúa vì chính lòng nhân từ của Người, chứ không phải vì chúng ta là những người được hưởng lợi từ lòng nhân từ ấy. Cách cầu nguyện này là một con đường khác mà chúng ta có thể loại bỏ (hoặc quên đi/ chết đi) Cái Tôi ra khỏi cuộc đời mình. Vì cần phải có một sự từ bỏ bản thân cao độ để có thể ngợi khen Thiên Chúa thậm chí khi chúng ta không tìm được ích lợi từ lòng nhân lành của Người, hay ngợi khen Người vì đã chúc lành cho những người khác thay vì cho chúng ta!

Khi chúng ta nói cầu nguyện là một sức mạnh vô biên, thì ý tưởng đầu tiên của chúng ta đó là: sức mạnh ấy được quy hướng trực tiếp tới việc thay đổi ý định của Thiên Chúa dành cho chúng ta và sắp đặt những gì chúng ta nghĩ là tốt cho chúng ta. Hơn nữa, chính sức mạnh ấy hoạt động theo chiều ngược lại. Thực ra, một trong những phương tiện mạnh mẽ nhất mà chúng ta có để thay đổi chính mình (chứ không phải Thiên Chúa) đó là việc cầu nguyện chân thành được thực hiện trong sự hiệp nhất với Chúa Giê-su, hay như chính Người đã nói ‘bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy cầu xin Chúa Cha thì Người sẽ ban cho anh em!’ Cầu nguyện nhân danh Đức Giê-su có nghĩa là cầu nguyện theo cách mà chính Đức Giê-su đã làm trong vườn Giệt-si-ma-ni ‘xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha!’ Khi ấy, việc cầu nguyện sẽ chủ yếu và duy nhất hướng đến việc làm cho chúng ta vâng theo ý định của Thiên Chúa trong mọi sự!

Ngày 24/2

“Hôm nay Chúa gọi em, ngày mai e rằng quá trễ.” [Cha Eymard đã nói như thế với các chị gái của mình là Marianne và Nanette, 1837]

Câu nói này có thể rất quen thuộc với các tu sĩ Dòng Thánh Thể, vì nó được trích dẫn thường xuyên và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Cha Eymard đã nói những lời này với chị gái Marianne của mình. Chính bà là người đã đề nghị cha ở lại dù chỉ một ngày, trước khi rời bỏ giáo xứ để gia nhập dòng Marist. Câu trả lời của cha Eymard cho thấy cha đã đặt Thiên Chúa lên trên hết trong cuộc đời mình và sẽ làm bất cứ việc gì cho Thiên Chúa, dù điều đó có thể làm tổn thương đến những người thân cận và thân thương của chính cha. Có thể vào lúc đó cha đã nhớ đến lời của Đức Giê-su “Hễ ai yêu cha hay mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy; và hễ ai yêu con trai hay con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy…” (Mt 10,37-38). Cũng có thể là đằng sau suy nghĩ của cha, có một thực tế là: phải mất nhiều thời gian và phải cố gắng nhiều để nhận được sự cho phép của Đức Giám mục đến nỗi cha không muốn mạo hiểm bỏ lỡ cơ hội.

Một lý do thích hợp khác giải thích cho việc từ chối này, đó là: cha lo sợ những cảm xúc của mình có thể là điều tốt hơn đối với cha và điều đó sẽ khiến cha dễ dàng ở lại vì những người thân yêu của mình. Dù là lý do gì đi nữa, chắc chắn nó cho thấy sự mở lòng hoàn toàn của cha để thi hành ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc đời cha, không cần biết phải trả giá thế nào, cá nhân hay một đặc điểm nào khác vốn soi sáng mọi chuyện thông qua câu chuyện về cuộc đời lận đận của cha. Trong bất kỳ trường hợp nào, thậm chí nếu cha ở lại, người ta tự hỏi cha sẽ làm gì trong ngày đó: hầu như cha sẽ hoàn toàn dâng hiến chính mình không phải cho các chị gái mình cũng như không phải cho Chúa! Với một khí cụ quá ngoan đạo và trung thành, chẳng lẽ Chúa lại không thể làm gì?

Vì thế, không cần phải băn khoăn vì sau này khi có nhiều nhân vật nổi tiếng khác tìm cách thành lập một hội dòng Thánh Thể, thì cha Eymard là người duy nhất đã thành công trong việc thành lập hội dòng tồn tại cho đến ngày nay. Lời nhận xét này không có nghĩa là bỏ qua việc đánh giá những người khác có liên quan đến những dự án này, nhưng để nhấn mạnh đến chân lý là Thiên Chúa thực hiện những việc kỳ diệu qua những con người dâng hiến hoàn toàn vào tay Ngài, như Đức Giê-su vậy. Ngài muốn người ta sẽ không ngoái lại đàng sau, khi họ đã tra tay cầm cày, sẽ không tìm cách làm lợi cho những người thân yêu của mình và chỉ khi ấy họ mới sẵn sàng đáp trả lời mời gọi của Ngài. Chính những con người này thể hiện một ‘sự điên dại’ (cha Eymard gọi đó là ‘sự phóng đại’) trong cách làm của mình cũng như trong việc mở rộng tình yêu. Họ sẽ thực sự làm được những việc lớn lao cho Thiên Chúa và cho nhân loại.

Sự liều lĩnh như vậy thường phát xuất từ việc nhận thức sâu sắc về những việc Chúa đã làm cho tôi/chúng ta! Sự nhận thức càng sâu sắc thì những hành động và quyết định của những con người như vậy, những con người xuất hiện trước mặt chúng ta như những kẻ ‘ngoài cuộc’, sẽ càng ‘kỳ lạ’, có thể nói như vậy. Thế nhưng đó là vì chúng ta không chia sẻ kinh nghiệm sâu sa về Thiên Chúa mà người khác đã có. Ở đâu có tình yêu sâu đậm, không có gì là không thể và không có gì là quá mắc để có thể dâng hiến. Tình yêu làm cho mọi sự thành có thể và tình yêu không bao giờ nói ‘đủ rồi’!

Ngày 25/2

“Việc chiêm niệm Thánh Thể thì năng động hơn là thụ động” [ ]

Cha Eymard thường nói với các tu sĩ của mình rằng ‘đặc ân của Hội dòng chính là đặc ân cầu nguyện’. Để giải thích điều này, chúng ta có thể nói rằng trong khi đối với hầu hết các tu sĩ khác, cầu nguyện là một phương thế để đạt đến mục tiêu hay đặc sủng của hội dòng cụ thể của họ, thì đối với tu sĩ Thánh Thể, việc cầu nguyện chính là hoạt động tông đồ của họ. Trong khi lời khẳng định này nhấn mạnh đến tầm quan trọng và sức mạnh của việc cầu nguyện khi đi sâu vào những cảm xúc của Đức Giê-su như khi Ngài cầu nguyện trong vườn Giệt-si-ma-ni, thì việc này sẽ không đối lập với các hoạt động tông đồ khác, như thể nói rằng tu sĩ Thánh Thể không cần bám víu vào bất kỳ hoạt động tông đồ nào khác vì họ đã tập trung vào chính việc cầu nguyện rồi.

Ngay từ đầu, cha Eymard đã nêu quan điểm rõ ràng rằng các tu sĩ của cha sẽ không chỉ đơn thuần chiêm niệm nhưng ít ra là sẽ làm việc để đem càng nhiều người bao nhiêu có thể đến với Đức Giê-su nơi Bí Tích Thánh Thể. Rước lễ lần đầu cho người lớn là một trong những mục tiêu cụ thể của cha, và có thể đối với cha điều duy nhất đạt được chính là chấp nhận và nhận ra dự án Thánh Thể vĩ đại của cha. Vì thế, khi cha Eymard đề nghị rằng việc chiêm niệm Thánh Thể của chúng ta sẽ không chỉ mang tính thụ động, ít ra cha có ý đề cập đến hai điều: trước tiên, việc cầu nguyện của chúng ta sẽ được bao bọc bởi hành động, đem tình yêu của Đức Ki-tô đến với mỗi người đang cần giúp đỡ. Tu sĩ Thánh Thể không chỉ đơn thuần cầu nguyện vì lợi ích của riêng mình. Thái độ của họ sẽ phải mang tính hoạt động và phổ quát!

Thứ hai, việc đến gần Đức Giê-su thông qua việc cầu nguyện thường xuyên và kéo dài có nghĩa là thắp lửa tình yêu của Thiên Chúa nơi họ, để sau đó họ sẽ truyền lửa ấy đến khắp Paris và sau đó là trên toàn nước Pháp. Đây là ý định của cha và ý định ấy có thể được tìm thấy nơi chính đời sống cầu nguyện của cá nhân cha. Dù cha Eymard dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và cảm nhận được những khoảnh khắc ấy, nhưng cha vẫn tham gia vào tất cả những hoạt động tông đồ. Khi cha không thể đến với người ta, thì chí ít cha sẽ tìm cách đến với họ qua những lá thư. Số lượng những lá thư quan trọng của cha nhiều nhưng không quá 5 tập. Người ta có thể tưởng tượng ra rằng: tinh thần tông đồ của cha sẽ thể hiện mạnh mẽ biết dường nào trong thời đại công nghệ thông tin với việc sử dụng những khả năng như internet, i-pods, di động và những thứ khác đại loại như thế!

Có lẽ đi đầu trong thời đại của mình, cha Eymard đã nắm bắt được chân lý rằng: Thánh Thể được ban cho chúng ta không phải như một phần thưởng dành cho những người tốt lành hay người có nhân đức, nhưng trên hết, Thánh Thể chính là sự hiện diện năng động của Đức Giê-su, Đấng mà tâm hồn Ngài vẫn thổn thức với khát vọng bừng cháy là làm cho tình yêu của Chúa Cha được từng con người nhận biết và cảm nghiệm được. Việc cầu nguyện của chúng ta sẽ làm cho chúng ta nên một với cảm xúc và khát vọng của Đức Giê-su. Bất kể thời gian nào chúng ta dành ra để cầu nguyện thì cũng sẽ thêm sức cho chúng ta để có thể đi đến tận cùng trái đất loan báo sứ điệp tình yêu của Ngài! Vì thế, đối với chúng ta, thời giờ cầu nguyện giống như việc đổ đầy xăng vào xe của mình lúc bắt đầu ngày mới, để chúng ta có đủ nhiên liệu cho mọi cuộc hành trình mà chúng ta có thể thực hiện trong suốt ngày sống. Chúng ta làm điều này với một mục đích tông đồ trong tâm tưởng, chứ không phải cho sự thỏa mãn và vui sướng của cá nhân chúng ta!

Ngày 26/2

“Qua việc hiệp lễ, Đức Giê-su đến với chúng ta, ở giữa chúng ta, liên kết chính mình với chúng ta” [ ]

Điểm đầu tiên đánh động chúng ta trong lời khẳng định này chính là cha Eymard đặt việc khởi xướng hoàn toàn nơi Thiên Chúa chứ không phải nơi chính chúng ta. Nói cách khác, không phải vì chúng ta chọn lựa để đón nhận Đức Giê-su qua việc Hiệp lễ, nhưng là Ngài chọn lựa để đến với chúng ta. Thứ đến, Đức Giê-su đến với chúng ta không phải vì chính bản thân chúng ta, như thể là tất cả những gì Ngài muốn đơn giản là ở với chúng ta và đồng hành với chúng ta. Hơn nữa, ước vọng nồng cháy của Ngài chính là tuyển lựa chúng ta vào trong công trình cứu chuộc vĩ đại nhằm đưa con người đến một cuộc sống tự do, hiệp thông cách yêu thương với Chúa Cha và với nhau. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng bao lâu mục tiêu này vẫn chưa đạt được, thì mục đích của Thánh Thể cũng như sự hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa sẽ chưa được hoàn tất.

Thật không may, trong nhiều thế kỷ sau đó, khi bàn đến tặng phẩm của Đức Giê-su dành cho chúng ta nơi Phòng Tiệc Ly, thì việc nhấn mạnh đã được chuyển từ sứ vụ tông đồ sang việc thánh hóa và an ủi bản thân. Chúng ta chỉ cần nhìn vào những lời kinh mà người ta được khuyến khích đọc sau khi lãnh nhận Mình Thánh trong Thánh Lễ thì cũng đủ thấy sốc, việc nhấn mạnh hoàn toàn quy về Tôi/của tôi… Thậm chí lời kinh vĩ đại của thánh Phan-xi-cô ‘xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa…’ thường được đọc một cách hết sức thê lương và thờ ơ đến nỗi người ta tự hỏi xem có bao nhiêu cơ hội để ‘lời kinh’ ấy có thể biến người ta thành một khí cụ của bình an nơi làng xóm vào ngày đó!

Tại sao linh đạo của chúng ta lại trở nên quá hướng nội? Phải chăng là chúng ta chưa nắm bắt được ý nghĩa thực sự của việc trở nên một Ki-tô hữu? Như Phụng vụ (xem Kinh nguyện Thánh Thể IV) đã chỉ ra một cách rõ ràng, Ki-tô hữu là người không chỉ sống cho chính mình nhưng là cho người khác. Người ấy bị thuyết phục hoàn toàn về ân huệ mà Chúa Cha ban cho mình trong Đức Ki-tô, đó là: được tuyển chọn để ra đi và sinh nhiều hoa trái, và để hoa trái tồn tại! (Ga 15,16). Giờ đây, hoa trái được dành cho chúng ta không phải là những nhân đức mà dường như chúng ta tập trung để thủ đắc, nhưng là số ‘chiên’ mà chúng ta sẽ đem về trong đoàn chiên duy nhất của Đức Giê-su! Ki-tô hữu chính là một chứng nhân (cũng như qua sức mạnh của lối sống của người ấy) cho chân lý: Đức Giê-su sẽ tạo ra một sự khác biệt trong cuộc đời của bất kỳ người nào biết dâng chính mình vào tay Ngài.

Một cái nhìn thoáng qua về toàn cảnh thế giới ngày nay sẽ cho chúng ta biết: làm thế nào chúng ta trở thành những Ki-tô hữu nhiệt thành với hoạt động tông đồ! Những sự kiện gần đây cho chúng ta thấy rằng: trên thế giới, trong số bốn người thì có một người là tín đồ Hồi giáo. Một sự gia tăng đáng kể chỉ diễn ra trong vòng 100 năm qua hay nhiều hơn thế. Dẫu sao, cộng đoàn Ki-tô hữu vẫn giảm về số lượng! Lý do là vì trong thực tế, chỉ một tỷ lệ nhỏ các Ki-tô hữu ý thức về chiều kích sứ vụ trong cuộc đời mình một cách nghiêm túc và sẵn sàng trả giá cho điều đó. Nhìn chung, quan niệm sai lầm của hầu hết mọi người chính là: trở nên một Ki-tô hữu có nghĩa là làm một điều gì đó cho/vì chúng ta hơn là một điều gì đó mà chúng ta làm cho người khác!

 

Ngày 27/2

 

“Định hình con người quả thực là chiến thắng của Thánh Thể” [Hội thảo]

Lời trích dẫn này từ những bài viết của cha Eymard một lần nữa cho thấy lối suy nghĩ tích cực của cha về Thánh Thể. Trước tiên, hầu hết các Ki-tô hữu đều sẽ giới hạn hành động biến đổi của Thánh Thể thành một sự thay đổi xảy ra nơi ‘linh hồn’ để nhận ra rằng sự phân biệt giữa ‘linh hồn’ và ‘thân xác’ đơn giản chỉ là một khái niệm của lý trí (được rút ra từ triết học Hy Lạp) để giúp chúng ta hiểu và giải thích lý do vì sao và con người khác/vượt hẳn con vật như thế nào. Tưởng chừng như là vô hại, thế nhưng nó lại gây ra những hậu quả bi thảm trong đời sống thực tiễn của chúng ta. Vì lẽ, hầu hết các Ki-tô hữu chủ yếu chỉ quan tâm đến đời sống ‘tâm linh’, việc trưởng thành về nhân đức, nỗ lực để đạt được Nước Trời và những chuyện đại loại như thế; chừa lại phần kiến tạo “thế giới” này cho người khác, là những người ít ra cũng quan tâm đến việc cải thiện nó; nhìn chung mối bận tâm của con người dường như là sử dụng một cách tốt nhất những lợi ích của nó cho bản thân mình!

Ki-tô hữu nên có một lối tiếp cận toàn diện hơn về vấn đề này. Chúng ta là con người (chứ không phải là một tổng hợp của ‘xác’ và ‘hồn’) và mối quan tâm duy nhất của chúng ta, đó là: biến thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn để tất cả mọi người và từng cá nhân có thể chung sống; để tất cả mọi người có thể sống như anh chị em, con cái của cùng một Cha trên Trời! Hầu hết mọi tôn giáo đều nói đến nhân phẩm của con người, và chính xác hơn đó là Thiên Chúa cư ngụ nơi cung lòng và cuộc sống của con người. Ngài không được tìm thấy nơi những đền thánh và đền thờ cho bằng là trong cuộc sống của con người, đặc biệt là cuộc sống của những con người đang nỗ lực để chống lại những chênh lệch nặng nề nhưng biết theo tiếng gọi của lương tâm để trung thành với Lời của Ngài. Đa số những người khác sẽ chỉ nhìn cuộc sống như một cơ hội ‘tự do- dành cho- tất cả mọi người’ để đạt được tối đa những ơn lành cho chính mình, tuyệt đối không quan tâm đến những con người đang phải gánh chịu sự bất công, nghèo đói và khó nhọc.

Trái lại, Ki-tô hữu là một ‘con người có tính cộng đoàn’ biết quan tâm và ra công làm việc để nâng đỡ đến mức tối đa những anh chị em của mình. Người ấy nhận ra rằng những ơn lành người ấy nhận được không phải được ban vì lợi ích của riêng cá nhân họ, nhưng là phương tiện để chia sẻ với người khác. Người ấy nhận ra rằng một Ki-tô hữu không ‘lên thiên đàng’ một mình, tất cả vì một mình người ấy. Người ấy phải đem những người khác theo, và người ấy lại càng có thể đem theo những điều tốt hơn! Chính những người ra đi trước người ấy sẽ đón tiếp người ấy vào vinh quang của Chúa Cha khi ngày giờ của người ấy gần đến. Chúng ta có thể nói rằng trong sự Quan Phòng, Thiên Chúa đã chỉ định một số người sẽ chỉ đến với tôi chứ không phải người nào khác. Đây chính là những con người mà Ngài gửi đến trong cuộc đời tôi bằng cách này hay cách khác. Nếu tôi làm việc để mưu ích cho những con người này, thì tôi sẽ hoàn thành sứ vụ của tôi trên dương thế. Khi mỗi người biết quan tâm tới số người được ủy thác cho mình, thì toàn thể gia đình nhân loại sẽ được bao bọc chở che!

Phải chăng mỗi Thánh Lễ chúng ta cử hành và tham dự sẽ thêm sức cho chúng ta để có thể loan báo Nước Thiên Chúa đi xa và rộng khắp, không chỉ tập trung vào những ích lợi và ơn phúc của riêng cá nhân chúng ta. Mỗi Thánh Lễ phải làm cho chúng ta biết quan tâm đến người khác nhiều hơn và giảm bớt sự tập trung vào bản thân mình! Đức Giê-su mời gọi chúng ta lặp lại và sống sự tự hiến của Ngài: ‘Đây là Mình Thầy bị nộp vì anh em. Hãy cầm lấy mà ăn’.

 

Ngày 28/2

“Thánh Thể là nguồn cảm hứng tuyệt vời nhất của tâm hồn chúng ta” [ ]

Rõ ràng, lời trích dẫn này không dùng từ Thánh Thể để ám chỉ đến nghi thức Thánh Lễ, nhưng là đề cập đến bản chất của tất cả những gì mà Thánh Thể muốn diễn tả. Được nhìn từ lăng kính của Đức Ki-tô, Thánh Thể đơn giản chỉ là ‘tái hiện lại’ việc trao ban chính mình một cách hoàn toàn, quảng đại của Đức Giê-su qua việc vâng phục Chúa Cha và vì tình yêu dành cho anh chị em của Ngài, là tất cả những kẻ tội lỗi như chúng ta! Chính tình yêu đã dẫn Đức Giê-su đến Thập giá. Qua cử chỉ khả kính này, Đức Giê-su đã bẻ bánh, biểu trưng cho việc bẻ hoàn toàn cuộc đời của Ngài vì anh em mình… và sau đó Ngài thực sự đã trao ban chính mình trên Thập giá. Và với các môn đệ, Ngài nói: (Anh em) hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy!

Bảo toàn mạng sống là phản ứng tự nhiên của con người trong lúc khủng hoảng. Khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là cứu mạng sống mình bằng bất cứ giá nào, dù đó là một sự sợ hãi thể lý mà chúng ta đối diện, một sự chối bỏ của xã hội, một sự nhục nhã hay một sự buộc tội về luân lý. Và thường thì để bảo vệ mạng sống của mình, chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì, thậm chí là nói dối, khiển trách hay kết án người khác vì những sai lầm của chúng ta, hay thậm chí còn nhẫn tâm loại bỏ đi tất cả bằng chứng buộc tội vốn là những vật hay thậm chí là con người. Chống lại nền tảng tự nhiên của việc quan tâm đến bản thân này, mẫu gương của Đức Giê-su quả là kỳ diệu: Ngài ý thức và sẵn sàng chấp nhận bị buộc tội và kết án cách bất công, Ngài đã chọn lựa để cho nọc độc của tội lỗi đi ngang qua mình nhằm tẩy sạch nhân loại khỏi quyền lực phá hủy của tội lỗi. Và khi làm việc ấy trong chính cuộc đời mình, Ngài đã mời gọi các môn đệ: ‘hãy làm việc này như một sự tưởng nhớ đến Thầy!’ để duy trì niềm cậy trông vào sự sống thật cho đến cùng.

Vì thế, Thánh Thể mời gọi và thách đố chúng ta vươn đến những tầm cao tuyệt đỉnh, trong đó mức độ đầu tiên là chúng ta tự do chọn lựa để đền bù tội lỗi của chính mình. Ở một mức độ khác hay mức độ cao hơn, chúng ta tỏ lộ ra chính mình sẵn sàng chấp nhận đau khổ và chịu chết vì những lỗi lầm và thất bại của những con người mà chúng ta không hề hay biết trong cuộc sống. Điều này sẽ trở nên vĩ đại nếu chúng ta chấp nhận cái chết thể lý thực sự trong những tình huống này. Nhưng có lẽ, điều cao cả hơn chính là chúng ta có thể chấp nhận cái chết từng phần, có thể nói là từng ly từng tí, trong đó sự chối bỏ, sự kết tội và những điều khác sẽ trở thành lương thực hằng ngày của chúng ta. Những nhà lãnh đạo vĩ đại như Mahatma Gandhi, Nelson Mandela và những nhân vật khác đã cho chúng ta thấy rằng đây không phải chỉ là một ý tưởng hiếm thấy. Việc chia sẻ trong Thánh Thể sẽ biến đổi mỗi Ki-tô hữu thành một anh hùng cứu độ mà qua đó nó đem lại cho chúng ta sức mạnh ân sủng của Ngài: ‘đừng sợ; Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!’

Thánh Thể không làm cho chúng ta trở thành ‘những anh hùng không được ca tụng trong thơ ca’, những con người làm những việc vĩ đại và những hành động anh hùng cho anh em mình, thế nhưng về sự quảng đại, thì Thiên Chúa luôn luôn vượt trội hơn cả: dưới cái nhìn của Ngài, mỗi nỗ lực nhỏ bé đều được ghi nhận và được tưởng thưởng! Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ đúng khi chúng ta xem Thánh Thể không phải là một phương tiện dành cho mình để đạt được một điều gì đó từ Thiên Chúa, nhưng như một cơ hội để dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa cũng như cho anh em của Ngài, là những người đang cần giúp đỡ! Nguyện xin cho chúng ta trước hết hiểu thấu được sự thúc đẩy này của Thánh Thể, và sau đó tìm được sức mạnh để vươn tới những tầm cao này qua những tình cảnh trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Bản dịch của Lm. Martinô Nguyễn Trung Hiếu, sss